ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits: 1,691,651,832
Stories: 8,403,126
Profile image
0
0
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước: 1
24h trước: 1
Tổng số: 23
Thị trường trái phiếu việt Nam: Một số vấn đề và giải pháp phát triển
Monday, December 9, 2013 22:00
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.



Một số vấn đề và giải pháp phát triển

Thị trường trái phiếu Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhất định. Nguồn: internet

Hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường ngày càng được hoàn thiện, hạ tầng kỹ thuật, hệ thống giao dịch, lưu ký, giám sát cũng liên tục được thiết lập, cải tiến với mục tiêu xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt và thể hiện được vai trò của mình trên thị trường vốn.

Quy mô thị trường đã tăng mạnh từ 2,8% GDP (năm 2001) đến 20,14% GDP năm 2010 và lên tới 21,6% GDP vào cuối năm 2012, trong đó trái phiếu chính phủ (TPCP) và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 15,7% GDP, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) chiếm khoảng 5,56% GDP và một phần nhỏ còn lại là trái phiếu chính quyền địa phương (TPCQĐP).

Với mục tiêu xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu một cách bền vững, đảm bảo an toàn hệ thống và từng bước tiếp cận các thông lệ, chuẩn mực quốc tế để trở thành một kênh huy động vốn an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế, ngày 01/2/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 261/QĐ-BTC phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến năm 2020.

Theo đó: (i) Tăng tỷ trọng dư nợ trái phiếu/GDP từ 18% (năm 2011) lên khoảng 38% GDP (năm 2020) trong đó dư nợ TPCP đạt khoảng 22% GDP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh đạt khoảng 8% GDP, dư nợ TPCQĐP đạt khoảng 1% GDP; và dư nợ TPDN đạt khoảng 7% GDP; (ii) Kéo dài kỳ hạn vay qua phát hành TPCP trong nước giai đoạn 2011 – 2015 trung bình khoảng từ 4 – 6 năm và giai đoạn 2016 – 2020 lên khoảng từ 6 – 8 năm; (iii) Tăng tỷ trọng TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do khối các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, công ty quản lý quỹ (Công ty Quản lý quỹ) nắm giữ từ mức 12% (năm 2011) lên mức 20% (năm 2020); (iv) Tăng khối lượng giao dịch trái phiếu giao ngay bình quân phiên từ mức khoảng 0,2% dư nợ trái phiếu niêm yết (năm 2011) lên mức khoảng 0,3 – 0,4% dư nợ trái phiếu niêm yết (năm 2020).

Tuy nhiên, trong thời gian tới, để phát triển thị trường trái phiếu cũng như đạt được các mục tiêu đã đề ra theo đúng lộ trình, còn có rất nhiều vấn đề đặt ra về cơ cấu thị trường, về sản phẩm cũng như nhà đầu tư, thị trường thứ cấp có mức thanh khoản thấp, hệ thống trung gian tài chính chưa chuyên nghiệp.

Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm

Thị trường TPDN còn kém phát triển

Quy mô thị trường chính là yếu tố đầu tiên để đánh giá thị trường đó có phát triển hay không. Tại Việt Nam, sau hơn 10 năm hoạt động, thị trường trái phiếu đã có mức tăng trưởng tốt, bình quân hàng năm giai đoạn 2001 – 2011 đạt hơn 40%, có thời điểm còn đạt mức tăng trưởng cao nhất so với các quốc gia khác trong khu vực.

Tuy nhiên, nếu tính theo tiêu chí tổng dư nợ trên GDP thì quy mô thị trường vẫn còn thấp so với một số quốc gia có trình độ phát triển hơn như Thái Lan, Malaysia… Tổng dư nợ thị trường trái phiếu tính tới tháng 3/2013 tại Thái Lan là 75% GDP, tại Malaysia là gần 110%trong khi con số này tại Việt Nam chỉ trên 20%.

Hiện nay, sản phẩm trên thị trường trái phiếu chủ yếu được chia thành 2 loại là TPCP (bao gồm cả trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP) và TPDN. Với vai trò là kênh huy động vốn trung – dài hạn cho nền kinh tế, tỷ lệ giữa TPCP và TPDN thường không chênh lệch quá nhiều tại các quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Nhưng tại Việt Nam thì tỷ lệ này có mức chênh lệch khá rõ ràng, phản ánh sự chi phối thị trường đến từ phân khúc TPCP.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thị trường TPDN có quy mô nhỏ, chưa phát triển so với TPCP hay rộng hơn là so với thị trường TPDN của các nước khác. Các nguyên nhân này đến từ nhiều phía, có thể chia thành 4 nguyên nhân chính:

(i) Nguồn cung: sản phẩm TPDN trên thị trường chưa nhiều, chủ yếu do các doanh nghiệp Nhà nước hay tổ chức tín dụng phát hành, tập trung vào 2 loại hình chính là trái phiếu thông thường và trái phiếu chuyển đổi (với công ty cổ phần);

(ii) Cầu đầu tư: cơ sở nhà đầu tư còn thiếu khi nhà đầu tư chủ yếu trên thị trường trái phiếu hiện nay là các ngân hàng thương mại (NHTM). Các đợt phát hành trái phiếu cũng thường là phát hành riêng lẻ cho một số nhà đầu tư, ít khi đấu thầu rộng rãi;

(iii) Trung gian tài chính: Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức định mức tín nhiệm (CRA) chuyên nghiệp nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư khi đánh giá về doanh nghiệp phát hành;

(iv) Khuôn khổ pháp lý: Nghị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành TPDN ra đời năm 2011 thay thế cho Nghị định 52/2006/NĐ-CP trước đó mặc dù đã tạo được hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho việc phát hành nhưng vẫn cần tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tế.

Chưa phát hành thành công trái phiếu có kỳ hạn dài

Trên thị trường vốn, nguồn vốn ngắn hạn chủ yếu được cung cấp bởi hệ thống NHTM, trong khi thị trường chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu) sẽ cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn. Theo thống kê trên thị trường quốc tế, kỳ hạn thông thường của trái phiếu là khoảng 3 – 10 năm, cá biệt có những đợt phát hành với kỳ hạn lên tới 10 – 30 năm.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở Việt Nam cho thấy thị trường trái phiếu chưa thực sự là kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế mà chủ yếu vẫn là các kỳ hạn ngắn. Mặc dù TPCP và TPDN thường được phát hành với các kỳ hạn từ 2 – 15 năm, song tỷ lệ trúng thầu cao nhất lại là các trái phiếu có kỳ hạn dưới 5 năm, chiếm khoảng 90% khối lượng phát hành. Điều này cho thấy các nhà đầu tư trên thị trường hiện nay đa số tập trung vào phân khúc trái phiếu kỳ hạn ngắn, có thể do lo ngại về bất ổn kinh tế vĩ mô khi vấn đề lạm phát luôn được đặt lên hàng đầu những năm qua, hoặc do nhà đầu tư chưa coi thị trường trái phiếu là kênh đầu tư chính.

Theo bảng trên thì trái phiếu được tập trung phát hành nhiều nhất vào 2 kỳ hạn là 3 năm và 5 năm. Trái phiếu kỳ hạn 10 năm gần đây đã được Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đẩy mạnh phát hành nhưng tỷ lệ trúng thầu không cao do không nhận được sự quan tâm từ phía nhà đầu tư.

Cơ sở nhà đầu tư chưa đa dạng

Khác với cổ phiếu, nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu đa phần là các nhà đầu tư tổ chức vì khối lượng trái phiếu đấu thầu và giao dịch có giá trị lớn nên nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư nhỏ lẻ khó có thể đáp ứng được. Tại các quốc gia phát triển, cơ sở nhà đầu tư luôn được đa dạng hóa, có sự cân đối giữa các nhóm nhà đầu tư nếu muốn duy trì lực cầu đều đặn trên thị trường. Các nhà đầu tư chủ chốt trên thị trường trái phiếu thường là các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, NHTM…

Với thị trường trái phiếu Việt Nam, đã xuất hiện các nhóm nhà đầu tư tổ chức cơ bản, nhưng mức độ tham gia của các nhà đầu tư này chưa thực sự chuyên nghiệp. NHTM hiện đang là nhóm nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường trái phiếu Việt Nam khi nắm giữ khoảng trên 80% lượng TPCP. Trong bối cảnh thị trường tín dụng đang gặp nhiều khó khăn 2 năm gần đây, nguồn vốn từ NHTM được đầu tư mạnh vào thị trường trái phiếu, giúp cho các đợt phát hành liên tục thành công.

Tuy nhiên, nhu cầu đầu tư của các ngân hàng lại phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh chính là cho vay, khiến nguồn vốn này không có tính ổn định, có thể giảm xuống đột ngột bất cứ lúc nào và không đem lại sự phát triển bền vững như mong muốn cho thị trường.

Công ty bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ được coi là một nhà đầu tư tiềm năng trên thị trường trái phiếu. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường có kỳ hạn dài, cộng thêm nhu cầu cần phải giữ tỷ lệ an toàn vốn cao, nên các công ty bảo hiểm luôn có một tỷ lệ nhất định TPCP trong cơ cấu vốn đầu tư của mình.

Nhưng vấn đề ở đây là quy mô thị trường bảo hiểm còn thấp, doanh thu phí bảo hiểm chỉ đạt khoảng 1,4% GDP vào năm 2012 khiến cho nguồn vốn đầu tư vào thị trường trái phiếu chưa cao. Tổng lượng TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh mà các công ty bảo hiểm nắm giữ tính đến năm 2012 cũng chỉ khoảng 33.945 tỷ đồng (chiếm khoảng 5% tổng dư nợ trái phiếu).

123NextView as Single Page
Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story
If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.