Khi Trung Quốc thành lập Vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông, nó sát sườn tới Biển Đông. Nó là phép thử, theo tôi nó còn nguy hiểm hơn cả “đường chín khúc”, vì luật hàng không thế giới chặt hơn luật hàng hải rất nhiều, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nói.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên T.Ư Ðảng, Thứ trưởng Quốc phòng chia sẻ với Nhân Dân hằng tháng về thời cuộc, đối ngoại quốc phòng, biển Ðông, về người cha và lớp trẻ, cùng những dự cảm tương lai.
Đột phá trong thông điệp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Shangri La trong bối cảnh quốc tế mới, theo ông là gì?
Đề cập lòng tin giữa các quốc gia không phải là chuyện mới.
Tuy nhiên, “lòng tin chiến lược” mà Thủ tướng Việt Nam trình bày tại Shangri La 2013 có ý nghĩa hoàn toàn khác.
![]() |
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên T.Ư Ðảng, Thứ trưởng Quốc phòng |
Châu Á – Thái Bình Dương hơn một thế kỷ qua luôn xảy ra xung đột. Lợi ích quốc gia bị ảnh hưởng rất lớn và lâu dài; thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng nhiều. Các nước đều hiểu, xung đột sẽ ảnh hưởng tới tất cả. Trong hơn 10 năm qua, an ninh khu vực có nhiều biến chuyển. Trung Quốc, Ấn Độ, rồi Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… đều phát triển đồng thời với việc mở rộng phạm vi lợi ích chiến lược. Lợi ích của châu Âu, của Mỹ cũng thay đổi, rõ nhất là chiến lược xoay trục của Mỹ. Bên cạnh môi trường quốc tế thuận lợi cũng nảy sinh câu hỏi: lợi ích chiến lược và sự phát triển của các quốc gia này có làm tổn hại tới lợi ích những quốc gia khác và an ninh khu vực hay không?
Với những động thái mới và can dự mạnh mẽ đó, các nước, nhất là các nước lớn cam kết sự phát triển của họ đều là can dự hòa bình, giúp cho ổn định, hợp tác. Thực tế còn chờ. Sự nghi ngại bắt nguồn từ nhiều thứ. Nhưng, an ninh quốc phòng lại là thứ dễ thấy nhất. Mặt khác, nói tuân thủ luật pháp quốc tế, song đã xuất hiện những tuyên bố, hành động mang tính đơn phương, coi thường luật pháp quốc tế, áp đặt. Để cam kết trở thành hiện thực, nói phải đi đôi với làm. Đã làm, phải đến nơi đến chốn, đó chính là “lòng tin chiến lược”.
Thế giới giờ ít cái mới. Đúng lại thường cũ. Mới chưa chắc đúng. Mới như cái gọi “Đường chín khúc” thì sai quá, chả ai chấp nhận được. “Lòng tin chiến lược” mới và đúng. Ít nhất ở cách tiếp cận. Và quan trọng hơn là tính mục đích của nó.
Thật ra, giới quan sát quốc tế vẫn nhớ thời điểm cuối 2009, khi ông trả lời phỏng vấn Bưu điện Hoa Nam buổi sáng cùng thời điểm Công bố Sách trắng Quốc phòng, như một tín hiệu về xây dựng lòng tin?
Sách trắng Quốc phòng 2009 không mới so với Sách trắng Quốc phòng 2004. Năm tới, chúng ta sẽ xuất bản Sách trắng quốc phòng mới. Tôi chắc chắn, Sách trắng Quốc phòng 2014 sẽ có điểm mới in đậm khái niệm “Lòng tin chiến lược” mà lãnh đạo ta đã khẳng định, song vẫn nhất quán với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây.
Chính sách quốc gia phải minh bạch và nhất quán. Minh bạch là không nói một đằng, làm một nẻo. Nhất quán là không thể nay nói thế này, mai nói thế khác, càng không thể tạo ra tiêu chuẩn kép.
Để gìn giữ hòa bình, Việt Nam khẳng định làm tất cả, vì một Biển Đông không tiếng súng, song sẵn sàng tự vệ và minh bạch với thế giới từ Sách trắng Quốc phòng 2009 cho tới công bố việc mua tàu ngầm Kilo, hệ thống S 300, máy bay Su-30…
Theo ông, cụ thể với vấn đề Biển Đông, lòng tin đó có ý nghĩa ra sao?
Hợp tác nếu thiếu lòng tin thì không thể thành công. Để xử lý bất đồng, xung đột, thiếu lòng tin lại càng không thể. Với vấn đề Biển Đông, điều quan trọng nhất là xây dựng lòng tin, cao hơn là lòng tin chiến lược. Rằng các quốc gia không định sử dụng sức mạnh quân sự, không tuyên bố và hành xử bất chấp luật pháp và thông lệ quốc tế.
![]() |
Các chiến sĩ đặc công ngụy trang tập luyện võ thuật. |
Khi đã không tin, lòng tin sẽ sứt mẻ. Đã sứt mẻ thì cứ vỡ dần, tạo ra hiệu ứng đô-mi-nô mất lòng tin. Cho nên, giữa chúng ta với các quốc gia liên quan, quan trọng nhất là phải xây dựng lòng tin chính trị. Mà quan trọng trước hết là chúng ta thực lòng muốn có quan hệ hợp tác, hữu nghị với Trung Quốc, muốn nhìn thấy Trung Quốc XHCN phát triển không đe dọa nước nào; tôn trọng, hợp tác với Việt Nam cùng phát triển, để trở thành những quốc gia có vai trò quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Chỉ có độc lập tự chủ và chủ quyền lãnh thổ là không nhân nhượng.
“Ðã nói, phải thẳng thắn, minh bạch”
Ông đón nhận tinh thần Đại hội XI về đối ngoại quốc phòng như thế nào, phải chăng lúc đó đã xuất hiện những vấn đề mới trong khu vực và quốc tế?
Văn kiện Đại hội XI có câu “chủ động tăng cường hội nhập trong quan hệ đối ngoại và tăng cường quan hệ quốc phòng an ninh”. Lần đầu tiên Đại hội Đảng đề cập trực tiếp tới đối ngoại quốc phòng. Tiếp đó, Trung ương ra Nghị Quyết 28 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đánh giá đối tượng, đối tác, chính sách đối ngoại, khẳng định đối ngoại quốc phòng không chỉ là nhiệm vụ của quân đội mà là việc chung của Đảng và Nhà nước.
Quan hệ quốc phòng với các nước tốt thì giảm thiểu nguy cơ xung đột. Cam kết không sử dụng vũ lực liên quan chặt chẽ tới quốc phòng. Nhân tố mới là sự can dự quốc phòng – an ninh của các quốc gia khiến mối quan hệ quốc phòng trở nên phong phú hơn…
Từ Hội nghị Trung Giã trong chống Pháp tới Hội nghị bốn bên ở Trại David – Sài Gòn trong chống Mỹ đã cho thấy đặc thù, thế mạnh của đối ngoại quốc phòng. Trong tình hình hiện nay, theo ông, đó là gì?
Đối ngoại quốc phòng có nét riêng là trực tiếp đề cập những vấn đề nhạy cảm về quân sự, quốc phòng. Thời chiến, tiếng nói của các tướng lĩnh có vai trò làm giảm căng thẳng. Trong hòa bình, quan điểm không sử dụng vũ lực với quốc gia khác từ các nhà quân sự tạo nên sức nặng tin cậy nhất định.
Giới quốc phòng – an ninh với nhau rất thẳng. Thí dụ chúng ta có hai quan điểm cơ bản, nhất quán: Việt Nam không sử dụng vũ lực với nước khác. Và cũng không bao giờ chấp nhận một quốc gia nào sử dụng sức mạnh vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực với chúng ta.
Chúng ta khẳng định không liên minh với bất kỳ ai để chống ai. Không cho ai đặt căn cứ ở nước mình. Không tham gia liên minh quân sự với tổ chức nào. Ủng hộ quan điểm không nước nào sử dụng vũ lực với nước khác. Quốc tế ủng hộ chúng ta, đó là nhân tố cực kỳ quan trọng ngăn chặn những mưu toan, ý định thiếu cân nhắc sử dụng vũ lực. Có thể nói, đối ngoại quốc phòng cụ thể hóa, trực tiếp chứng minh đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta bằng chính sự công khai minh bạch, quan hệ rộng mở và hành động thực tế.
Làm đối ngoại, ông cho điều gì là phương châm nằm lòng?
Theo tôi, quan trọng nhất là nắm vững đường lối của Đảng và Nhà nước. Tôi nhấn mạnh thêm hai yếu tố: Không nói thì thôi, đã nói phải thẳng thắn. Thứ hai là minh bạch. Bí mật quốc gia nước nào cũng phải giữ. Nhưng những gì thể hiện chính sách đối ngoại hòa bình, tự vệ thì mình phải minh bạch. Với sự thẳng thắn ấy, ta sẽ có lòng tin.
Trong mặt trận không tiếng súng, đôi khi câu chữ: “liên minh, diễn tập-tập trận”, “song phương-đa phương”, “cùng khai thác-cùng phát triển”, có thể bị hiểu sai?
Nguyên tắc là phải diễn đạt chặt chẽ, chính xác, không thể hiểu khác, không thể hiểu sai. Bảo Việt Nam “tập trận” là sai. Tôi từng nói, Việt Nam có “tập” mà không có “trận”, thí dụ chúng ta không tập trận, mà tích cực tham gia các cuộc diễn tập cứu hộ, cứu nạn trong khuôn khổ ASEAN chẳng hạn. Đồng thời phải cảnh giác với kiểu đánh tráo ngôn từ. Phải nói đúng, hiểu đúng, hiểu giống nhau về pháp luật quốc tế và các vấn đề khác. Cái gọi là “Đường chín khúc”, làm sao phù hợp luật pháp quốc tế?
Khi chúng ta công khai, minh bạch vấn đề Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa với thế giới, lắng nghe ý kiến cộng đồng quốc tế trên các diễn đàn song phương và đa phương thì không thể nói là “quốc tế hóa”, “lôi kéo nước này chống nước kia được”. Đó là luận điệu, hay là cách suy diễn sai lầm.
“Phải chỉ rõ những phép thử nguy hiểm”