
Đầu tháng 2/2014 cái tên Việt Nam xuất hiện rất nhiều trên báo chí quốc tế nhờ vào … Flappy Bird và McDonald’s.Trái với Flappy Bird đến và đi rất nhanh, franchise McDonald’s đầu tiên của VN đã phải mất gần mười năm mới mở cửa được và chắc sẽ ở lại mảnh đất này lâu dài.
Nếu Thomas Friedman đúng, sự hiện diện của McDonald’s biết đâu sẽ giúp VN tránh được đụng độ quân sự với anh láng giềng phương Bắc trong những năm tới (*).
Trước mắt sự hiện diện của McDonald’s đã giúp cho VN lọt vào danh sách thành viên của Big Mac Index(BMI) của tạp chí The Economist. Mặc dù ý nghĩa kinh tế và học thuật của BMI không đáng kể (ý tưởng BMI có nguồn gốc từ một lời nói đùa), việc VN được một tạp chí kinh tế tài chính hàng đầu thế giới quan tâm là một tín hiệu đáng mừng (**).
Khái niệm ngang bằng sức mua của Cassel
Khi nói về BMI người ta thường đề cập đến khái niệm Ngang bằng sức mua (Purchasing Power Parity – PPP), ở đây tôi sẽ giải thích kỹ hơn về khái niệm này để tránh nhầm lẫn (bạn nào không quan tâm đến học thuật có thể bỏ qua đoạn này).
Trước hết cần phân biệt “lý thuyết” PPP do Gustav Cassel đưa ra năm 1918 với “tỷ giá” PPP do University of Pennsylvania đưa ra từ những năm 1960 và hiện được World Bank quản lý. Hai khái niệm này có cùng gốc gác nhưng hiện được sử dụng độc lập với nhau và rất dễ hiểu nhầm.
Gustav Cassel, nhà kinh tế người Thụy điển cùng thời với Keynes và Hayek, đưa ra ý tưởng xác định tỷ giá giữa 2 đồng tiền dựa vào một qui luật kinh tế khá lâu đời là Luật một giá (“Law of One Price – LOP).
LOP giả thiết một loại hàng hóa nhất định sẽ chỉ có thể có một giá dù được mua bán ở các địa điểm khác nhau (nếu không arbitrage sẽ nhanh chóng xảy ra và giá sẽ được quân bình).
Cassel cho rằng nếu chi phí vận tải không đáng kể và giữa 2 quốc gia không có hàng rào thuế quan thì LOP sẽ dẫn đến việc tỷ giá giữa hai đồng tiền của hai quốc gia đó phải ở mức đảm bảo giá của một mặt hàng giống nhau ở 2 bên biên giới phải như nhau dù niêm yết bằng đồng tiền nào cũng vậy.
Nói nôm na nếu một chiếc xe hơi ở Mỹ có giá 50000 USD còn ở VN giá 1 tỷ VND thì tỷ giá VNDUSD tuân theo lý thuyết PPP sẽ phải là 20000 VND/USD (giả sử chi phí chuyên chở và thuế quan không đáng kể).
Điều này đảm bảo rằng sức mua của 50000 USD ở Mỹ hay ở VN đều như nhau, hay ngược lại sức mua của 1 tỷ VND ở đâu cũng vậy miễn là hai đồng tiền này được tự do chuyển đổi. Đó là lý do của tên gọi Purchasing Power Parity.
Khi tỷ giá thực tế không đảm bảo LOP hoặc PPP, một đồng tiền sẽ bị cho là định giá thấp (undervalued) hoặc cao (overvalued) so với đồng tiền kia. Ví dụ nếu giá xe hơi ở Mỹ và VN vẫn giữ như trên nhưng tỷ giá thị trường là 21000 VND/USD thì VND bị cho là định giá thấp hay USD bị định giá quá cao. Nói cách khác giá của chiếc xe đó ở VN nếu qui đổi sang USD sẽ là 47679 USD, rẻ hơn so với giá ở Mỹ nên LOP không còn đúng nữa và tỷ giá đã không tuân theo PPP.
Giới kinh tế học gọi lý thuyết PPP như trình bày bên trên là PPP theo nghĩa tuyệt đối (absolute PPP) , nghĩa là PPP áp dụng cho mặt bằng giá của các loại hàng hóa. Mặc dù lý thuyết này rất dễ hiểu và có vẻ chặt chẽ, không cần là chuyên gia kinh tế bạn cũng có thể chỉ ra hàng loạt lý do absolute PPP không thể đúng trên thực tế.
Ai cũng có thể thấy giá (tính ra USD) của rất nhiều mặt hàng ở VN khác xa so với giá ở nước ngoài, từ xe hơi, đồ điện tử, cho đến thuốc uống, sữa trẻ em. Trong hàng chục năm qua các nhà kinh tế đã sử dụng rất nhiều kỹ thuật kiểm định từ đơn giản đến hiện đại để tìm cách chứng mình LOP và PPP nhưng đa số đã thất bại.
Bởi vậy một phiên bản PPP ít chặt chẽ hơn được đưa ra, gọi là PPP tương đối (relative PPP). Theo lý thuyết này bất kể LOP hiện tại có đúng hay không tốc độ thay đổi tỷ giá của hai đồng tiền giữa hai thời điểm phải phản ánh tốc độ lạm phát của hai quốc gia.
Quay lại ví dụ giá xe hơi bên trên. Giả sử giá xe năm 2013 là 50000 USD ở Mỹ và 1 tỷ VND ở VN, tỷ giá hiện tại là 21000 VND/USD. Nếu trong năm 2014 lạm phát ở VN là 10%, nghĩa là giá xe sẽ tăng lên 1.1 tỷ VND, trong khi lạm phát ở Mỹ chỉ là 2%, giá xe tăng lên 51000 USD, thì tỷ giá sẽ tăng lên 8% (= chênh lệch lạm pháp) nghĩa là 22680 VND/USD. Trong trường hợp này PPP tương đối đúng và sức mua giữa hai năm 2013 và 2014 không thay đổi. Hay nói theo ngôn ngữ kinh tế học là tỷ giá thực (real exchange rate) không thay đổi.
Đa số các nhà kinh tế cho rằng PPP tuyệt đối không đúng trên thực tế, may ra PPP tương đối có thể đúng dù có cũng có nhiều lý do ảnh hưởng đến đọ chính xác của nó (vd chi phí vận tải, hàng rào thuế quan, có nhiều loại hàng hóa, dịch vụ không vận chuyển được, bản chất nền kinh tế khác nhau).
Có thể hiểu đơn giản, PPP tuyệt đối liên quan đến mặt bằng giá ở một thời điểm, PPP tương đối liên quan đến tốc độ trượt giá tương đối ở hai thời điểm. Với PPP tuyệt đối bạn có thể nói tại một thời điểm tỷ giá của một đồng tiền bị định giá cao/thấp.
Với PPP tương đối có thể nói tốc độ mất giá/ tăng giá của một đồng tiềngiữa hai thời điểmcó phản ánh đủ chênh lệch lạm phát hay không.
Và Ngang bằng sức mua của World Bank
Cuối thập kỷ 1960 một số nhà kinh tế ở đại học Pennsylvania, cái nôi của hệ thống tài khoản quốc gia SNA sau này, nảy ra ý tưởng so sánh GDP (thời đó phổ biến là GNP) của các nước với nhau. Vì GDP của mỗi nước được thống kê bằng đồng nội tệ của mình, muốn so sánh phải chuyển đổi về một đồng tiền chung.
Vấn đề là nếu tỷ giá thị trường tuân thủ theo PPP tuyệt đối thì việc chuyển đổi mới có ý nghĩa, bằng không một chiếc xe hơi ở nước này khi định giá bằng đồng tiền khác sẽ có thể nhiều hơn hoặc ít hơn một chiếc xe hơi tương đương ở nước được so sánh.
Trong ví dụ xe hơi đầu tiên khi VN chuyển đổi một chiếc xe hơi sản xuất trong nước giá 1 tỷ VND sang USD với tỷ giá 21.000 VND/USD, chiếc xe đó sẽ chỉ bằng 0.95 một chiếc xe sản xuất ở Mỹ.
Như vậy khi tỷ giá thị trường không phản ánh được sức mua tương đương cần phải xác định một loại tỷ giá cho mục đích chuyển đổi GDP để không bị tình trạng so sánh cam với táo. Tỷ giá hiệu chỉnh này được gọi là tỷ giá PPP, còn nghiên cứu ban đầu của đại học Pennslvania sau đó được Liên hợp quốc tiếp quản và phát triển gọi là International Comparison Program (ICP).
ICP sau này được chia cho OECD và WB quản lý mà nhiệm vụ chính là tính tỷ giá PPP cho từng quốc gia để đảm bảo việc so sánh GDP giữa các nước có ý nghĩa.
Nếu nền kinh tế chỉ có một loại hàng hoá duy nhất thì việc tính tỷ giá PPP quá đơn giản. Trong ví dụ xe hơi bên trên tỷ giá thị trường là 21.000 còn tỷ giá PPP là 20.000.
![]() Chỉ số BMI tính ngang bằng sức mua cho một loại hàng hóa duy nhất là chiếc bánh của McDonald’s
|
Tạp chí The Economist đã tính “tỷ giá PPP” dựa vào một loại hàng hoá duy nhất là chiếc bánh Big Mac của McDonald’s cho các nước thành viên của BMI. Với VN tỷ giá PPP theo BMI là 12,975 VND/USD đảm bảo sức mua bánh Big Mac ở VN và Mỹ như nhau.
Như vậy với tỷ giá thị trường hiện tại xấp xỉ 21.000 VND đang bị định giá thấp tính theo sức mua Big Mac. Tất nhiên không nền kinh tế nào đơn giản như vậy mà thường phải có hàng triệu mặt hàng khác nhau, tỷ giá PPP phải đảm bảo tính chất ngang bằng sức mua cho một rổ các loại hàng hoá đó.
Phức tạp hơn, một chiếc xe hơi sản xuất ở VN dù có thể cùng hiệu Toyota nhưng chắc chắn sẽ khác một chiếc Toyota ở Mỹ về nhiều mặt nên dù chỉ cần tính tỷ giá PPP cho xe hơi cũng phải cân nhắc và hiệu chỉnh nhiều thứ.