Nguyên nhân đầu tiên đến từ một hiện tượng khá phổ biến: tỷ lệ tăng trưởng GDP thường xuyên nằm trong khoảng 4-5%/năm trong khoảng thời gian 1945-1973. Tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định cho phép sức mua được giữ ở mức cao, đồng thời cũng khiến cho mọi người có linh cảm rằng, tăng trưởng sẽ kéo dài mãi mãi. Hiện tượng này được giải thích trước tiên bởi quá trình phục hồi diễn ra sau những thập kỷ mất mát kéo dài từ 1914-1945.
Bên cạnh đó, một lý do khác còn sâu sắc hơn đến từ những hậu quả trong dài hạn. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổi ra, tài sản tư nhân cũng biến mất. Đầu những năm 1950, tổng giá trị tài sản tài chính và bất động sản của các hộ gia đình chỉ tương đường hơn 1 năm tổng thu nhập quốc dân, so với hơn 6 năm tổng thu nhập quốc dân trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Cần đến hơn nửa thế kỷ sau để mối tương quan giữa tài sản và thu nhập (thước đo trung tâm cho sự phát triển của tư bản) phục hồi về tỷ lệ gần như xấp xỉ (đạt 6/7 trong những năm 2000) so với “Thời kỳ tươi đẹp” tại châu Âu (“Belle Époque” – kéo dài từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1914 khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra).
Tuy nhiên, người ta cũng nhận ra đây là xu hướng chung trong tất cả các nước phát triển chứ không riêng gì ở Pháp. Trên cấp độ toàn cầu, sự tích lũy tư bản của tư nhân đã được nhìn nhận như việc mở ra những lĩnh vực mới và vùng “lãnh thổ” mới mà trước kia từng chỉ thuộc sở hữu của Nhà nước.
![]() Theo Piketty, nếu hệ thống thuế bị suy yếu, sẽ chẳng còn điều gì có thể ngăn cản hiện tượng bất bình đẳng giàu-nghèo trầm trọng như đã từng xảy ra trong thế kỷ 19 quay trở lại trong thế kỷ 21 này. |
Nền kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân vốn tư bản cuối cùng đã được nhìn nhận trong những khía cạnh tích cực.
Không phải vì một hệ thống được tạo lập dựa trên sự chấp nhận thực tế thói ích kỷ của cá nhân hay sự không hoàn hảo của con người, mà là vì đây là hệ thống duy nhất hướng đến sự to do của con người và đáp ứng những mong muốn vô hạn của cá nhân. Nhưng cũng từ đó mà người ta nhận ra rằng, điều tất yếu không thể tránh khỏi khi chủ nghĩa tư bản giải phóng khỏi kích thước hiện có, chắc chắn sẽ tạo ra sự bất bình đẳng, không bền vững, vô lý và đe dọa giá trị cốt lõi của sự dân chủ mà trước tiên là tư tưởng trọng nhân tài.
Trong “30 năm vinh quang”, chỉ có 1% dân số có khả năng nhận tài sản thừa kế tương đương tổng thu nhập của 1 đời lao động với mức lương tối thiểu (tương đương 500.000 euro hiện nay). Tỷ lệ này đã tăng gấp 10 lần trong vòng 20 năm, vượt trên 10% dân số trong những năm 2010 và còn cao hơn nữa nếu tính cả lợi nhuận sinh lời của những tư bản đó. Thậm chí, sẽ phải mất nhiều thời gian nữa để nhận ra điều đó, trong khi phần tư bản nhận được từ thế hệ trước rồi chuyển cho thế hệ tiếp theo sẽ tiếp tục tăng.
Ý tưởng về sự tích lũy tư bản được xác lập dựa trên hiện tượng tiết kiệm trích ra từ thu nhập lao động – đã từng phổ biến trong “30 năm vinh quang” trong giai đoạn tăng trưởng cao về kinh tế và nhân khẩu học – đã biến mất ngay sau khi những hậu quả của những cuộc chiến tranh đã lùi xa và lợi nhuận từ tư bản vượt xa tỷ lệ tăng trưởng. Sự giàu lên một cách vô lý nhờ tài sản đã vượt qua việc nhận thừa kế.
Tuy vậy, tư bản tạo ra nguồn lợi nhuận không ổn định và khó dự đoán: có thể tạo ra cho mỗi người giá trị thặng dư hoặc làm thiệt hại giá trị thặng dư (thông qua các tài sản như chứng khoán và bất động sản) một giá trị tương đương mức lương của nhiều chục năm lao động cộng lại. Và thậm chí, sự tích lũy tư bản đang diễn ra mạnh mẽ và có thể còn tăng. Khi đó chẳng có gì nhiều ảo tưởng hơn việc hình dung tư bản tập trung trong một số gia đình quyền lực.