Phỏng vấn Dược sĩ-Lương y Đào Kim Long về chữa trị bệnh ung thư
Tuesday, November 25, 2014 1:40
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo
Mặc dù đă nhiều lần trò chuyện trực tiếp với một số bệnh nhân và xem kết quả xét nghiệm của cơ sở y tế có uy tín, song tôi vẫn chưa thể hoàn toàn tin vào câu chuyện “Thầy ta chữa được ung thư”. Ngay tại những quốc gia có nền y học phát triển bậc nhất thế giới như Mỹ và Trung Quốc, tỷ lệ nạn nhân ung thư, nhất là ung thư tủy xương may mắn thoát khỏi lưỡi hái tử thần cũng rất thấp. Người ta sẵn có máy móc hết sức hiện đại với hàng trăm loại biệt dược quý hiếm được tinh chế theo công nghệ tiên tiến nhất; trong khi ông Long chỉ có các loại thảo dược nội địa, chế biến thủ công…
Với hy vọng một phần giải đáp thắc mắc trên, xin giới thiệu nội dung bài phỏng vấn người trong cuộc.
Ông nghiên cứu ung thư từ năm nào ?
Từ năm 1966, ngay sau khi tốt nghiệp trường Đại học Dược Hà Nội và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Vì là học trò cưng của thấy Lợi(GS.TS Đỗ Tất Lợi), lại nổi tiếng đam mê khoa học, nên tôi sớm “lọt mắt xanh” hai chuyên gia đầu ngành nghiên cứu bệnh ung thư của nước ta thời ấy là thầy Di và thầy Quyền ( GS.Hồ Đắc Di và GS. Trương Công Quyền).
Thầy Quyền trực tiếp giao cho tôi nhiệm vụ nghiên cứu về nấm lớn ( chủ yếu là các loại Linh Chi) để t́m nguyên liệu làm thuốc điều trị ung thư. Sở dĩ các thầy đặt hy vọng vào nấm lớn, bởi như lời thầy Quyền- các loại thuốc chữa nhiễm khuẩn, tức kháng sinh, điển hình là Penixinlin giớ khoa học lấy từ vi nấm; các thuốc cấp cứu – lấy từ cây cỏ, thí dụ- thuốc trợ tim Neriolin tinh chế từ lá cây trúc đào, thuốc cảm cúm Aspirin tinh chế từ vỏ cây dương liễu; vậy thì thuốc chữa ung thư phải tìm ở những cây nấm lớn…
Và đó cũng là thời gian ông tiếp xúc với bệnh nhân ung thư đầu tiên?
Đúng vậy. Sự kiện diễn ra năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Thầy Hồ Đắc Di giới thiệu cho chúng tôi một phụ nữ người dân tộc Tày. Vì bị ung thư, cánh tay chị phù nề, phình to nhu quả bí, nhưng mầu lại đỏ như quả nhót chín. Chụp X-Quang chỉ cò một khối trong suốt, tất cả xương đă bị con bệnh ăn sạch! Thời đó thiếu thốn mọi thứ, kể cả kiến thức về bệnh ung thư. Chắc chị ấy không sống được bao lâu, nhưng hình ảnh cái cánh tay khủng khiếp ấy bám riết chúng tôi trong nhiều năm và nó càng thôi thúc chúng tôi tích cực tìm kiếm phương thuốc chữa trị.
Các loại nấm lớn là phương thuốc đó?
Chúng tôi đă nghiên cứu nhiều năm, song các loại Linh Chi không mang lại kết quả như trông đợi. Có thể vì thời đó giới khoa học hiểu chưa đúng về bệnh ung thư. Họ chỉ biết rằng, ung thư là hậu quả của tình trạng rối loạn, chuyển sinh sản tế bào từ gián phân sang trực phân, còn lý do tại sao thì không ai lý giải được. Chỉ biết rằng, đặc điểm của hiện tượng là tế bào sinh sản cực nhanh và hệ quả là phải tiêu thụ nhiều thức ăn, tức thu hút ngày càng nhiều mạch máu để nuôi khối u và cuối cùng nạn nhân sẽ chết vì suy sụp. Do tin rằng, chỉ cần “dọn sạch” khối u là giải quyết được vấn đề, bởi thủ phạm gây ra bệnh là khối u, thế nên người ta đi tìm trong thiên nhiên những hợp chất khả dĩ thực hiện được nhiệm vụ đó (tương tự như thuốc kháng sinh tiêu diệt vi trùng điều chế từ vi nấm).
Ông làm gì, sau thất bại với các loại Linh Chi?
Trước hết, xin lý giải tại sao tôi lại theo học nghành Y Dược và gắn cuộc đời mình với Đông Y. Trước hết vì nỗi đau gia đình. Thực ra từ nhỏ tôi đă thích môn văn và có năng khiếu học văn (lớp tám đã có thơ đăng báo) thế nhưng bước ngoặt cuộc đời sảy ra năm tôi học lớp 10. Mặc dù gia đình có nghề làm thuốc, song mọi người đều bất lực chứng kiến cảnh em gái tôi mới 16 tuổi chết dần vì bệnh tim. Hồi đó ở miền Bắc, bệnh viện Bạch Mai là cơ sở y tế có uy tín nhất mà cũng không cứu được. Với hy vọng học những kiến thức khoa học khả dĩ giúp những người như em gái tôi chiến thắng bệnh tật, tôi quyết tâm thi vào trường Đại học Y Dược, Hà Nội. Nói vậy, song thực tế cho đến khi trở thành sinh viên, tôi vẫn chưa hình dung được cụ thể con đường tiếp theo của ḿnh sẽ như thế nào. Mãi đến một hôm tại thư viện Nhân dân (thư viện Quốc gia ngày nay), tình cờ tìm được 6 tập sách “Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS.TS Đỗ Tất Lợi, cho dù vẫn chưa được học thầy, chưa biết mặt mũi thầy thế nào, song tôi đă vô cùng khâm phục và tự đặt cho ḿnh mục tiêu phải học bằng được nghề Y dược.
Nghiên cứu sách thầy Lợi, mới biết giữa Đông Y và Tây Y có rất nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều có truyền thống sử dụng cây cỏ, con vật làm thuốc phục hồi , tăng cường sức khỏe và chữa bệnh cho con người. Chỉ có điều, Phương Tây có nền khoa học – kỹ thuật phát triển hơn, nên người ta đă chế biến ra nhiều dạng thuốc uống, thuốc tiêm,… khác nhau, sử dụng tiện lợi hơn. Trước đó, các cụ nhà tôi hành nghề chủ yếu dựa vào cuốn “Nam dược thần hiệu”, kiến thức rất hạn chế.
Đọc sách của thầy Lợi, sau này lại trực tiếp được thầy dạy và hướng dẫn nghiên cứu, tôi “bị nhiễm” cả tính đam mê khoa học của thầy – đã làm việc gì phải làm kỳ được; đă nghiên cứu cái gì, bao giờ cũng đi đến tận cùng gốc rễ. Sau khi nghiên cứu các loại nấm Linh Chi để tìm nguyên liệu chữa ung thư không có kết quả, tôi chuyển sang lĩnh vực vừa nghiên cứu vừa chữa bệnh bằng y học dân tộc cổ truyền và Đông y.
Và quá trình vừa nghiên cứu vừa chữa bệnh đă giúp ông tìm ra nguyên liệu điều trị ung thư?
Đúng thế. Trước hết, muốn chữa bệnh có hiệu quả, người thầy thuốc phải biết được cơ chế phát sinh bệnh. Trong thời gian nhiều năm hành nghề, riêng với bệnh ung thư, với kiến thức về giải phẫu học, bệnh học, sinh hóa… của Tây y, nghiên cứu về mạch và áp dụng kỹ thuật tứ chẩn của Đông y, thực tế điều trị người bệnh đă giúp tôi lý giải được nguồn gốc phát sinh của con bệnh. Sự thực, ung thư là một bệnh thuộc dạng chuyển hóa, mà nguyên nhân sâu xa là tình trạng gan bị ngộ độc. Nó hoàn toàn không phải là nguyên nhân gây bệnh như cách lý giải kinh điển phổ biến. Cụ thể, ung thư là hậu quả của tình trạng rối loạn chuyển hóa protein.
Dựa vào những chứng cớ ǵ để khẳng định như vậy?
Thực tế khám và chữa bệnh. Nhìn chung, tất cả người bệnh đến khám (có kết quả xét nghiệm sinh hóa của bệnh viện hoặc không) đều có biểu hiện chuyển hóa cơ bản tăng. Tùy mức độ nặng nhẹ của con bệnh và từng loại bệnh cụ thể – lương y có trình độ sẽ nhận thấy mức độ phát nhiệt từ huyệt lao cung trong lòng bàn tay với cường độ khác nhau. Mạch người bệnh bao giờ cũng cường hỏa và rối loạn. Đối chiếu với kết quả xét nghiệm, sau thời gian dài nghiên cứu, tôi rút ra kết luận quan trọng. Người bị các bệnh dạng dị ứng như nổi mề đay, á sừng, eczema… thường là nạn nhân của tình trạng rối loạn chuyển hóa gluxit. Người bị bệnh cao huyết áp, rối loạn tim mạch… thủ phạm là rối loạn chuyển hóa lipit sinh ra cholesterol trong máu cao. Và tình trạng rối loạn chuyển hóa protein sẽ sinh ra các bệnh ung bướu (lành hoặc ác tính).
Có thể hiểu, tính trạng gan bị ô nhiễm khiến cho quá trình chuyển hóa vật chất trong cơ thể bị rối loạn là nguyên nhân sâu xa của bệnh ung thư?
Gan với hai chức năng chính là chuyển hóa và giải độc là cơ quan đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống, mà cho đến nay khoa học vẫn chưa khám phá hết bí mật của nó. Không phải ngẫu nhiên, khi biết rằng, cho dù đă có lịch sử phát triển hàng chục ngàn năm, song các bệnh có nguồn gốc từ gan bị ô nghiễm lại được Đông y xếp hạng chót trong “tứ chứng nan y” (phong, lao, cổ, lại – phong (hủi, cùi) và lao là hai bệnh nhiễm trùng đă được Tây y giải quyết bằng thuốc kháng sinh, riêng Cổ (xơ gan cổ trướng) và Lại (ung thư) đến nay vẫn là nan y). Thực chất, cả 2 loại bệnh nan y sau cùng đều là hậu quả của trạng thái rối loạn chuyển hóa và đều xuất phát từ gan.