Tranh cãi xuyên thế kỷ về hạt mơ và vitamin B17 trong việc phòng chống Ung thư
Friday, December 5, 2014 2:15
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Không riêng gì những hợp chất có độc tính, giá trị bổ dưỡng hoặc trị liệu của một món thực dưỡng sẽ khác nhau do cách chế biến. Chẳng hạn cà chua có tác dụng chống ung thư. Tuy nhiên ăn cà chua sống không bằng cà chua nấu chín. Ăn nguyên quả cà chua tác dụng cao hơn nhiều so với ăn chất chiết xuất carotenoids từ cà chua. Sau nầy một nghiên cứu ở Mỹ cũng cho thấy là ăn các loại thực phẩm tự nhiên có chứa các sinh tố B6, B12 và Folate sẽ giảm nguy cơ ung thư tuỵ tương ứng là 81%, 73% và 52%. Ngược lại những người dùng các viên sinh tố tổng hợp có các sinh tố trên chẳng những không giảm mà còn tăng nguy cơ ung thư tuỵ lên đến 139%.
Ngoài ra, cũng nên biết rằng hợp chất amygdalin còn được tìm thấy trong rất nhiều loại hạt và rau củ khác như hạt kê, hạt đay, hạt mè, hạt hạnh nhân, hạt mận, hạt lê, hạt cherry, khoai mì, hạt đào. (B17 không có trong hạt điều, hạt chanh). Trong khi hạt mơ chỉ có khoảng 3% thì tỷ lệ nầy trong hạt đào là 3,5%. Vậy mà hạt đào, thường gọi là đào nhânlại là một vị thuốc rất phổ biến trong Đông y. Đào nhân có tác dụng phá huyết ứ, nhuận táo, hoạt trường. Liều dùng trung bình của đào nhân từ 6 đến 12g mỗi ngày. Sách Nam Dược Thần Hiệu có ghi lại 2 phương thuốc mà vị đào nhân có thể dùng với liều cao hơn nhiều. Bí đại tiện, dùng 40g đào nhân luộc ăn cả lúc bụng đói. Ho hen, thở ngắn, dùng100g đào nhân giã nát, cho vào một bát nước lắng lấy nước cốt nấu cháu với gạo tẻ.
Hiệu quả hay không hiệu quả ?
Từ những năm 1950s, nhiều nơi trên thế giới đã chú ý đến giá trị của B17. Theo Tiến sĩ Manuel D. Navarro, Giáo sư sinh hoá ở trường Đại học Santo Tomas, Manila, Philippines ”Laetrile là loại thuốc lý tưởng để điều trị ung thư”. Tiến sĩ Ettore Guidetti thuộc trường Đại họcTurin, Ý cũng đã báo cáo trước Liên Đoàn Ung Thư Quốc Tế (International Union Against Cancer) vào năm 1954 rằng có thể điều trị cho bệnh nhân ung thư bằng Laetrile mà không cần phải giải phẫu. Tiếp theo, đã có nhiều nhà khoa học thuộc các nước khác nhau như Anh, Bỉ, Nhật, Ý, Canada hoặc đơn độc hoặc hợp tác trong nhiều nghiên cứu y khoa về tác dụng của B17. Ở Mỹ, Tiến sĩ John A, Morron, trên cơ sở hợp tác nghiên cứu với những tổ chức ở Canada, đã viết một báo cáo về những bệnh nhân ung thư được điều trị với B17. Báo cáo được phổ biến trên tạp chí Experimental Medicine and Surgery (số 4, 1962) có ghi rõ “những kết quả gây ấn tượng dặc biệt về giảm đau”. Sau một hoặc 2 lần chích B17, có 5 trong số 10 bệnh nhân có cơn đau đã biến mất hoàn toàn. Trong bảng tóm tắt, ông lưu ý đến những hiệu quả giảm đau, giảm mùi hôi thối, phát triển cảm giác thèm ăn và giảm viêm sưng nơi khối u.
Trong quyển sách Freedom from cancer của Macheal L. Culbert, ký giả báo Berkeley Daily Gazette, đã kể lại một trường hợp ung thư giai đoạn cuối được chữa khỏi. Một thanh niên 18 tuổi ở Plainview đã được xét nghiệm và chẩn đoán là ung thư dịch hoàn giai đoạn cuối ở Bệnh viện Minnesota, đã trải qua phẫu thụât ở Bệnh viện Mayo. Sau đó, Bác sĩ điều trị cho biết cần phải tiếp tục xạ trị. Cũng vào thời điểm nầy cha mẹ cậu nghe nói về B17. Tháng 1.1972, ông bà quyết định đưa cậu sang Bệnh viện Contreras ở Tijuna, Mexico, không xa lắm từ Minnesota. Trong thời gian ở đây, từ tháng 1 đến tháng 5.1972, cậu thanh niên được chích B17, thêm một số sinh tố, và một chế độ ăn khá nghiêm nhặt. Sau đó, cậu trở về nhà và được tiếp tục dùng B17 dưới dạng thuốc viên. Đến tháng 9.1972, tất cả các xét nghiệm kiểm soát bởi các bác sĩ người Mỹ ở địa phương đã cho biết cậu đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Chân lý bị che mờ?
Vào tháng 1.1975, Tiến sĩ Chester Stock, Phó Chủ tịch Hội Nghiên Cứu Ung thư Sloan-Kettering ở Newyork (SK) khi trả lời phỏng vấn cho đài truyền hình Canada đã cho biết là đã có những kết quả “rất có ý nghĩa” khi thử nghiệm B17 trên loài chuột. Tuy nhiên, vấn đề cũng chỉ dừng lại ở đó và không có sự công bố chính thức. Đến tháng 7.1975, một phát ngôn viên của SK, khi trả lời phỏng vấn báo New York Times đã phủ nhận thông tin trên và nói rằng những thử nghiệm trước đó của Tiến sĩ Sugiura không được công nhận, dù cho vị nầy là một nhà khoa học hàng đầu về lãnh vực nầy lúc bấy giờ. Đặc biệt, vào ngày 23.8.1975, phóng viên Culbert đã nhận được một bức thơ nặc danh có tiêu đề của hội SK (được gởi đến từ một viên chức của SK) kèm theo 32 trang giấy mô tả đầy đủ quá trình của 6 cuộc thử nghiệm B17 trên loài chuột. Nghiên cứu được thực hiện bởi Tiến sĩ Sugiura thuộc SK trong khoảng thời gian từ 3.8.1973 đến ngày 8.2.1975. Tất cả các thử nghiệm đều cho thấy những tác động tích cực của B17 trên những con chuột bị ung thư, nhất là tác dụng phong toả khối u, không cho di căn. Bức thư viết “Đây là một số kết quả thí nghiệm của Sloan-Kettering với Laetrile. Vì những áp lực chính trị, những kết quả nầy đã bị bưng bít, xin hãy cố gắng hết sức để những dữ liệu quan trọng này nhận được sự chú ý của công luận”.
Vào những năm 1970s, những báo cáo về sử dụng B17 từ Bác sĩ Ernesto Contreras có lẽ đáng lưu ý hơn cả. Tiến sĩ Contreras tốt nghiệp Đại học Quân y Mexico, nghiên cứu sau đại học ở Boston, là Giám đốc Bệnh viện Del Mar ở Tijuna, Mexico. Báo cáo sơ khởi về 500 trường hợp giữa 1963 và 1967 cho biết B17 có hiệu quả tốt trong 64% và 36% không đáp ứng. Đến 1976, theo hồ sơ y khoa của trên 10.000 bệnh nhân trong thời gian 14 năm, con số là 67% đáp ứng tích cực. Đáp ứng mà ông mô tả được ở các bệnh nhân gồm gia tăng sự bình an, giảm hoặc mất hẳn cảm giác đau đớn, lấy lại sắc diện, thèm ăn và tăng cân. Ông không dùng từ chữa khỏi (cure) mà là kiểm soát (control). Một số đã kiểm soát hoàn toàn căn bệnh. 35% đã không đáp ứng gì với B17. Trong số 65% đáp ứng thì có khoảng phân nửa trong số nầy đã có dấu hiệu bệnh tái lại sau khi phục hồi được một thời gian. Số còn lại từ sự hồi phục từng phần các triệu chứng cho đến biến mất hoàn toàn tất cả các triệu chứng. Báo cáo cũng cho thấy hầu hết bệnh nhân ung thư của ông là người Mỹ, 90% số này là ung thư giai đoạn cuối, những người đã được chẩn đoán và xác định là chỉ còn sống một thời gian ngắn, vài ngày, vài tuần họăc vài tháng.
Ở những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, tỷ lệ 30% đáp ứng tốt quả là đáng khích lệ. Tuy nhiên, vào khoảng 1982, dưới sự bảo trợ của NCI, Hội Ung Thư Quốc Gia Mỹ, một cuộc nghiên cứu được thực hiện ở Bệnh viện Mayo Clinic và 3 Trung Tâm Nghiên Cứu Ung Thư khác ở Mỹ trên 178 bệnh nhân ung thư đang phát triển lại được báo cáo là không chứng minh được hiệu quả gì trong điều trị ung thư! Một số trường hợp khối u đã phát triển hoặc có dấu hiệu ngộ độc HCN! Những người bảo vệ B17 không tỏ ra tin tưởng lắm độ xác thực của những dữ liệu nầy. Đó là chưa kể đến yêu cầu quan trọng của một liệu pháp dinh dưỡng là phải kèm theo một chế độ ăn nghiêm nhặt và B17 được sử dụng phải là loại có nguồn gốc thiên nhiên chớ không thể là loại hoá chất Laetrile, nhãn hiệu được cấp phép sản xuất tổng hợp ở Mỹ và là loại được sử dụng trong những nghiên cứu này.
Chuyện không có hồi kết.
Tịch thu, bắt bớ, cấm đoán kể trên là dạo những năm 1970s. Đó là những cao điểm trong phong trào đòi quyền bình đẳng cho B17 và việc tự do hành nghề, tự do sử dụng B17 trong điều trị ung thư ít tốn kém và không độc hại. Đến nay, gần 40 năm trôi qua, trong số những người đã tranh đấu vì B17, nhà khoa học, bác sĩ điều trị hoặc bệnh nhân ung thư thì một số đã ra đi mà chưa thấy được kết quả. Cho đến nay, chỉ có 19 tiểu bang trong số trên 50 tiểu bang của Hoa kỳ cho phép bán vị thuốc này với một số hạn chế về phương thức sử dụng. Cụ thể, tại California, nơi khởi xướng việc sử dụng B17, nơi mà B17 bị triệt để săn lùng và cấm đoán từ những năm 1970s thì đến nay tình hình vẫn không thay đổi, B17 vẫn là món thực dưỡng vô thừa nhận!