Bác sĩ PHẠM NGỌC THẠCH (7.5.1909 – 7.11.1968)
Sunday, January 25, 2015 18:59
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo
Thỉnh thoảng xem “anh Lực” kể về các quan chức gạo cội ngày nay vừa đảm việc nước vừa giỏi việc nhà, tôi lại liên tưởng đến một thế hệ “quyền lực” thời xưa. Mấy nét chân dung của một trong số họ-một tri thức Pháp học, một bộ trưởng, một Con Người! Xin giới thiệu Hồi ức của Colette Phạm Ngọc Thạch nhân dịp 100 năm ngày sinh của ông!
PHẠM NGỌC THẠCH (1909-2009)
BA TÔI
— Ba Má tôi gặp nhau ở Hauteville (tỉnh Ain, Pháp) vào những năm 1934-1935. Ba tôi tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa về phổi và lao, làm việc ở bệnh viện điều trị lao, nơi mẹ tôi làm y tá. Rất nhanh chóng, họ cảm mến nhau, rồi yêu nhau thực sự. Ba nhất quyết phải về nước và có ý định mở phòng mạch ở Sài Gòn. Ba ngỏ ý muốn kết hôn với Má nếu Má đồng ý sang Việt Nam. Song Ba cũng thổ lộ : “ Em phải hiểu cho anh là đối với anh, mục đích tối thượng là đất nước độc lập. Nếu em đồng ý như thế thì chúng ta sẽ kết hôn ở Sài Gòn ”. Má tôi nhận lời, và năm 1936, bà đáp tàu thuỷ sang Việt Nam. Ba má tôi thành hôn ngày 27 tháng 1 năm 1937, mấy năm sau sinh được hai chị em tôi.
— Hồi đó chắc tôi lên 5. Một đêm, tôi choàng dậy. Giường tôi nằm đối diện với một trong hai cái cửa sổ trong phòng. Trước mắt tôi là một con khỉ to lớn, lông lá đầy mình, hai tay bíu chặt chấn song cửa sổ. Nó nhìn tôi chằm chằm. Tôi la lớn, chị Hai chạy tới. Ngảy hôm sau, cả khu phố xì xầm. Người ta tin vì đây không phải là lần đầu có ma hiện ra. Người ta đồn rằng đó là hồn ma của một bà già người Bắc, chôn ở trước cửa nhà tôi. Liên tiếp mấy ngày sau đó, Ba ngủ trên một cái ghế bố ngoài hiên trước, canh chừng “ma quỷ”, nhưng không thấy hồn ma trở lại. Phần tôi, đến bây giờ tôi vẫn nhớ…
— Ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tôi lên bảy. Tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập. Cả nước mừng vui. Sài Gòn chào mừng sự kiện lịch sử này theo cách của mình. Một cuộc biểu tình được Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ tổ chức, 200 000 người hồ hởi tham gia trong trật tự.
— Má và hai chị em chúng tôi, cùng với bà hàng xóm người Pháp, vợ của bác sĩ Ngô Quốc Quyền, và ba người con, đi bộ từ nhà chúng tôi ở đường Léon Combes [nay là Sương Nguyệt Anh, chú thích của người dịch] về hướng trung tâm Sài Gòn. Chúng tôi bước đi, an nhiên giữa đám đông phấn khởi. Bỗng nhiên, có tiếng súng nổ. Khiêu khích chăng ? Làm sao biết được. Đám đông hoảng sợ, la hét, chạy tán loạn, người nào người nấy tìm chỗ trú. Lúc ấy, tôi cầm tay Marie-Thérèse, con gái lớn của bà Quyền. Má thì nắm chặt tay Alain, em trai tôi. Một lúc sau, chúng tôi lạc nhau. Marie-Thérèse và tôi chạy vào trú ẩn trong căn nhà phụ của mấy người bồi bếp thuộc một biệt thự không xa Nhà thờ Đức Bà. Nhiều người Pháp cũng chạy vào đó như chúng tôi. Nhưng chúng tôi không thấy Má, Alain, bà Quyền và hai người con kia đâu cả.
Xế chiều, người ta đưa tất cả chúng tôi lên một cái xe cam-nhông. Trên xe đầy những người Pháp lượm từ mấy nơi khác nữa. Xe chạy về Khám Lớn. Người ta tập trung chúng tôi ở sân nhà tù. Tôi để ý tới một người có vẻ quan trọng, đến nói với ông ta bằng tiếng Việt là tôi tìm Má, Má tôi là người Pháp. Ông ta ra lệnh cho tất cả những người Pháp đang tập trung trong Khám Lơn diễu hành qua mặt chúng tôi, nhưng tôi không thấy Má tôi đâu cả. Lúc đó tôi mới nói với ông : “ Ba cháu là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ”. Ông ta trố mắt nhìn tôi, rồi bảo tôi đợi đó. Vài phút sau, ông ta quay trở lại, nắm tay tôi, đưa lên xe, dẫn tôi tới Dinh toàn quyền. Chúng tôi bước vào toà nhà nguy nga, đèn thắp sáng chưng. Ông ta vẫn nắm tay tôi, dẫn tôi leo lên bậc thang hoành tráng. Trên lầu, ai đây ? Ba tôi ! Uỷ viên ngoại giao Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ, Bộ trưởng Bộ y tế của chính phủ lâm thời mà chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thành lập, Ba tôi đang thảo luận sôi nổi với những sĩ quan cao cấp Nhật (tôi còn nhớ đến bây giờ hình ảnh những thanh kiếm rất ấn tượng của họ…). Ba tôi ngạc nhiên hỏi tôi : “ Sao con lại tới đây ? — Con lạc Má lạc Alain rồi ”. Ba tôi vội chia tay với mấy quan chức Nhật Bản, cảm ơn người đàn ông đã đưa tôi tới, và trên chiếc xe nhà Citroën 11 loại nhẹ, cha con tôi đã lùng khắp các bệnh viện Sài Gòn, Chợ Lớn. Cuối cùng cũng tìm ra Má và Alain trong một trạm y tế Chợ Lớn. Má bị thương nặng ở mặt (mấy vết thương sâu hoắm, mấy cái răng bị gẫy vì một cú đấm trời giáng), còn em Alain bị đâm vào trán, phải khâu 10 mũi kim. Thật là đau đớn cho Ba con tôi.
Má kể lại, trong cơn hoảng loạn, má cầm tay Alain, cùng với bà Quyền và hai người con trai, chạy vào một ngôi nhà — sau này mới biết là dường như mấy phát súng bắn ra từ chính ngôi nhà đó ¬— nhiều người Pháp cũng chạy vào trú ẩn. Bà Quyền bị đâm chết trước mặt hai đứa con, trước mặt Má tôi và Alain. Đâm xong, hung thủ tiến về phía Má, bà vội kêu lên : “ Đừng giết tôi, tôi là vợ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ”. Đúng lúc đó, có một người đi qua, can ngăn hung thủ : “ Đừng giết bả. Kiểm lại xem bả nói có thiệt không ”. Nhờ vậy mà Má thoát chết. Bà Quyền là một trong 5 người Pháp đã bị giết ngày hôm ấy.
Cái trí dũng của Má, chính là ở đó. Sự việc xảy ra như thế vào ngày 2.9.1945, không bao giờ Má oán hận người Việt Nam. Ngược lại, Má một lòng sát cánh với Ba trong cuộc đấu tranh vì độc lập. Suốt đời, Má vẫn thủy chung, tận tuỵ và dũng cảm.
— Trung tuần tháng 9-1945, trưởng phòng thông tin Pháp, ông Fischbacher, nói với Ba : “ Có lẽ các ông hành động thuần tuý theo một biện chứng, là : một dân tộc phải giành lấy độc lập bằng vũ lực, bằng đổ máu, để chứng tỏ mình xứng đáng được độc lập, chứng tỏ mình biết giành lấy độc lập, bất luận cuộc đấu tranh ấy kết cục ra sao. Một bản anh hùng ca bảo chứng cho tương lai, qua đó nhân dân cảm thấy mình lớn hơn, ý thức được mình là ai. Nếu đúng như vậy, thì chúng ta chẳng còn gì để mà bàn luận nữa.”
“ Thì đúng như vậy đó ”, Ba tôi trả lời.
— 23 tháng chín 1945. 4 giờ sáng hôm ấy, Ba tôi lên đường ra bưng, trên xe — vẫn cái xe Citroën 11 ấy — chở kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát và một người nữa tôi không nhớ tên. Ít lâu sau, người ta tìm thấy cái xe nằm trên một thửa ruộng…
9 giờ sáng, mấy sĩ quan Pháp xông đến nhà tôi, 106 đường Léon Combes, để bắt Ba tôi. Má nói với họ : “ Các ông đến quá muộn. Chồng tôi đã đi rồi ”.
— Khoảng 1946-1947, một lần nữa, Má biểu hiện sự ngoan cường và thuỷ chung của mình đối với đất nước Việt Nam bằng cách nuôi giấu trong một căn phòng dành cho người làm, một người đã phá nổ một kho đạn, thân thể bị cháy bỏng cấp ba. Anh được bôi thuốc cao tàu, nhưng vết bỏng không lành mà còn nặng hơn. Má đã chăm lo cho anh suốt ba tháng trời, như một bà nữ thánh. Khi đã khỏi hẳn, anh tặng Má một pho tượng Đức Mẹ bằng ngà. Anh là người Công giáo.
— Từ 1946 đến 1949, có hai lần chúng tôi theo Má ra chiến khu thăm Ba. Lần thứ ba, Má đi một mình.
Được đi thăm Ba, tất nhiên chúng tôi vui sướng vô cùng. Ba tôi ở một ngôi nhà tranh khá rộng. Tối đến, Ba Má ngủ chung một giường, hai chị em chúng tôi một giường. Nhưng chúng tôi cãi nhau, đánh lộn như chó với mèo, Ba Má buộc phải tách chúng tôi ra : Má ngủ cùng giường với Alain, Ba cùng giường với tôi. Tôi còn nhớ được nằm gọn trong lòng Ba, sung sướng vô cùng…
Lần thứ nhất ra bưng, chúng tôi được gặp chú Phan Trọng Tuệ. Chú Tuệ ngồi bảnh choẹ trên một con ngựa rất đẹp, đầu đội cái mũ cao bồi bằng vải, oai lắm. Chú cho tôi leo lên ngựa và đưa tôi đi chơi rất lâu, trên những con đường trong khu an toàn.