Xóa sổ mô hình giáo dục hiện hành
Sunday, March 8, 2015 19:19
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Có lần GS Kurt Hahn đã phát biểu về vai trò của nhà trường: “Hãy cho trẻ cơ hội phát hiện bản thân. Cho phép chúng trải nghiệm hương vị chiến thắng và thất bại. Hãy cho trẻ cơ hội tập mộng mơ”.
Khởi đầu Thế kỷ XX, nhiều nhà cải cách giáo dục đã nghĩ tương tự. Họ hoạt động tại những quốc gia khác nhau và đi những kênh khác nhau. Nhờ họ, đã xuất hiện trào lưu giáo dục đào tạo mới hoặc giáo dục học cải cách.
Các nhà giáo dục như Maria Montessori, Rudolf Steiner, Celestyn Frinet, Alexander S. Neil hoặc John Holt bắt đầu nói về sự cần thiết dạy tập trung vào nhu cầu và những mối quan tâm của trẻ hay, nói cách khác, học qua hoạt động.
Học qua xúc giác
Tuy nhiên không phải tất cả yếu tố kích thích đều thu hút sự chú ý như nhau. Ðể được não quan tâm, đi kèm yếu tố kích thích phải có ba điều kiện gồm cảm xúc, hành động, và sự tham gia cùng lúc của nhiều giác quan.
Vì thế không nên kỳ vọng bài giảng dài hoặc tập hợp nhiều sự kiện nhưng khô khan sẽ mang lại cảm giác thú vị cho não. Sẽ tồn tại bao lâu trong đầu trẻ thơ giờ học, trong đó hoạt động chính của giáo viên là lấp đầy chỗ trống bằng những chữ cái còn thiếu hoặc lấp đầy những ô cửa cần phải điền đáp số bài toán?
Tính hiệu quả của công việc dạy học trước hết phụ thuộc vào động cơ của học sinh, thời gian dành cho vấn đề cụ thể và sự tái tạo sâu sắc thông tin. Trong khi sự tái tạo thông tin gắn với hoạt động, hoạt động đòi hỏi sự tham gia cùng lúc của nhiều giác quan trong đó có thính giác, thị giác, và xúc giác.
Giác quan cần lưu tâm hơn cả là xúc giác – giác quan nguyên thủy nhất. Chúng ta khám phá thế giới bắt đầu từ nỗ lực động chạm. Xúc giác bắt đầu phát triển ngay trong tháng thứ bẩy cuộc đời phôi thai, khá sớm trước khi hình thành đôi mắt (thị giác) hoặc hai tai (thính giác).
Theo nghĩa đen, xúc giác là hoạt động có tiềm năng phong phú nhất trong các giác quan. Các thụ cảm của cơ quan xúc giác nằm trên da, bộ phận có diện tích lên tới trên dưới hai mét vuông. Những cảm giác động chạm cũng được tiếp nhận ưu tiên trong não. Vỏ não đảm bảo nhiệm vụ giải mã tín hiệu xúc giác cung cấp trải khắp não bộ.
Hãy tưởng tượng não trở nên năng động thế nào khi chúng ta hoạt động bằng tay. Trong khi đó, càng nhiều cấu trúc não được kích hoạt trong lúc học, càng tốt. Thông qua cải biến thông tin, tái tạo chúng, và sử dụng thông tin vào những tình huống khác nhau, chúng ta đã đưa chúng vào bộ nhớ vĩnh viễn, không cần vã mồ hôi học vẹt.
![]() |
Trẻ sẽ nhớ lâu những gì bản thân chúng đã làm, Jean Jacques Rousseau.Giáo dục hiện hành cản trở việc học |
Cho đến nay phần lớn kiến thức nền giáo dục hiện hành chỉ sử dụng một kênh chuyển tải. Ðó là bằng lời. Nhà trường đặt trẻ ngồi ghế và giáo viên giảng bài.
Trong khi đó, ngay từ Thế kỷ thứ IV trước công nguyên, triết gia Hy Lạp Heraclitus (khoảng 535– 475 TCN) đã phát biểu: “Dạy học là thổi bùng ngọn lửa chứ không phải đổ đầy nước vào chiếc chum rỗng”.
Còn Aristoteles (384-322 TCN) dạy học trò của mình bằng cách bắt chúng dạo bộ. Nhà hiền triết cổ đại đã chứng tỏ linh cảm tuyệt vời về tác động của vận động.
Ngày nay, nhiều nghiên cứu của các nhà sinh lý học thần kinh chứng minh hoạt động thể chất dẫn đến sự tạo ra hợp chất có tên yếu tố tăng trưởng não bộ, “dưỡng chất dành cho tế bào thần kinh”, nhất là tại những địa bàn liên quan đến chức năng nhận biết.
Vận động cũng cải thiện sự phối hợp hoạt động tay-mắt, phát triển trí tưởng tượng không gian và củng cố mối liên kết giữa hai bán cầu não, tức thúc đẩy nhanh hơn dòng chảy thông tin.
“Khi dạy học, chúng ta hãy nhớ, kiến thức có cấu trúc riêng”, chuyên gia sư phạm đã nhiều năm quảng bá thành quả của giáo dục học thần kinh tại Ba Lan, TS Marzena Zylinska, nói.
Kiến thức phải được xây dựng như một ngôi nhà, phải có nền móng và trên nó là những bức tường với hệ thống cửa ra vào, cửa sổ. Nền móng trong giáo dục là những trải nghiệm cơ thể. Trải nghiệm thể chất thế giới.
Chúng ta không học khái niệm thông qua định nghĩa. Không bà mẹ nào có thể dạy con thơ, thế nào là “nóng” là “dễ chịu” bằng lời một cách thuyết phục. Trẻ chỉ có thể cảm nhận những khái niệm đó qua thực tế.
Mẹ đặt con vào bồn tắm và vặn vòi nước ấm, miệng hỏi: “Nước ấm không?” hoặc “nước nóng/hoặc lạnh quá không?”. Và trẻ bắt đầu hiểu thế nào là ấm, nóng, và lạnh.
“Chúng ta cần dạy trẻ đúng như vậy”, TS Marzena Zylinska khuyến nghị. “Quan trọng là trải nghiệm thế giới, cải biên hóa bằng những chi tiết cụ thể. Chỉ dựa vào nền tảng đó chúng ta có thể xây dựng sự hiểu biết những gì trừu tượng”.
Thực tế nền giáo dục đương đại vẫn kiên trì đường lối truyền đạt kiến thức theo lối học vẹt và dạy cách lắp ghép dữ liệu thô thiển, chuyên gia giáo dục cảnh báo.
Nếu luyện cách lắp ghép dữ liệu một cách máy móc, chúng ta vô tình cản trở nỗ lực học tập của não trẻ. Dạng vở bài tập trong đó nhiệm vụ của học trò “nối hai nửa câu có nghĩa”, “tô mầu” hoặc “cắt dán theo hình mẫu” là kỹ năng tái tạo nông cạn nhất.
Trẻ sẽ làm những bài tập như vậy. Thời gian trôi đi nhưng dấu vết trí nhớ mờ nhạt đến mức tất cả sẽ biến mất sau thời gian cực ngắn.
Học qua thao tác thủ công
Sẽ sai lầm nếu ai cho rằng học qua thao tác thủ công chỉ cần thiết đối với những môn học mang tính thực nghiệm như tự nhiên, hóa học hoặc vật lý. Thực tế không hoàn toàn như vậy. Từ học tập đọc, làm bốn phép tính, và tập viết, đều cần qua các thao tác thủ công.
Ngày nay nhiều người bĩu môi ai cần kỹ năng viết bằng tay trong thế giới ipad, laptop, smartphone.
Chúng ta học kỹ năng gõ trên bàn phím, bỏ qua nhiều ngày đau mỏi bã tay bởi những giờ học tập viết. Sự thật viết bằng tay là hoạt động trí tuệ phức tạp, các chuyên gia đã chứng minh. Vấn đề là kỹ năng viết không có giới hạn và đấy là việc học qua thao tác thủ công, dạng hoạt động phát huy tác dụng kích hoạt não bộ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy những trẻ được dạy kỹ năng viết bằng tay các bài tiểu luận hoàn thành bài tập nhanh hơn và chất lượng cao hơn so với bạn học viết trên bàn phím máy vi tính.
Vấn đề không phải là bản thân quá trình tái tạo thông tin mà là năng lực sáng tạo cấu trúc nội dung bài viết và tạo diện mạo cho bài viết. Lao động viết bằng tay diễn ra chậm hơn nhưng nó giúp cải thiện tư duy, GS Virginia Berninger thuộc Ðại học Washington, nhà khoa học chuyên nghiên cứu tâm lý học giáo dục, bình luận.
Người ta cũng có thể nhớ lâu hơn những gì đã viết bằng tay. Có được kết quả đó là bởi dấu tích trí nhớ trở nên sâu đậm hơn khi chúng ta huy động số lượng nhiều hơn tri giác tham gia học tập.
Chính hiệu ứng tuyệt vời này giúp chúng ta giành kết quả tối đa khi tự tay ghi chép bài giảng, tự tay tổng kết bài học trong thời gian học thi. Tái tạo những suy nghĩ hoặc ý tưởng bằng dấu hiệu ký tự chữ viết, công việc đòi hỏi sự chú ý và nỗ lực thể chất, làm cho chúng ta nhớ lâu và chính xác tất cả nội dung.
Khi viết tay, số lượng nhiều hơn tế bào thần kinh trong đầu buộc phải quan tâm xung quanh thông tin nhất định và chúng ta phải tái tạo thông tin nghiêm túc hơn.
“Cuộc sống không chỉ là nỗ lực hít thở. Cuộc sống là sự vận động” – ngay từ Thế kỷ XVIII cha đẻ triết học khai sáng Jean Jacques Rousseau (1712-1778) đã viết.
“Với tất cả các bộ môn, các bạn phải học nhiều hơn thông qua hoạt động chứ không phải thông qua lời nói. Trẻ dễ quên những gì bản thân chúng đã phát ngôn và những gì người khác nói cho chúng nghe. Nhưng trẻ sẽ nhớ lâu những gì bản thân chúng đã làm” – nhà tư tưởng Pháp khẳng định.
Theo Nauka
Bài viết được đăng bởi http://www.zeronews.us
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo