Sử Việt bốn lần nội chiến: Chính nghĩa, phi nghĩa…
Wednesday, May 6, 2015 19:45
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
– Lê Lợi khởi nghĩa chống Minh, dù rất chính nghĩa; nhưng khi cần vẫn phải kiếm một vị tôn thất nhà Trần, dựng thành “vua”, để có nhãn hiệu chính thống. Quả nhiên, khi “vua” hết vai trò thì lập tức bị “phế” – kể cả giết bỏ.
– Mạc Đăng Dung muốn chiếm ngôi nhà Lê, trước hết cũng dựng vua (bù nhìn); rồi ép vị vua này viết “chiếu nhường ngôi” – để bố cáo khắp thiên hạ (1527), sau đó giết vua. Phe đối lập (chống Mạc) cũng làm y hệt; kể cả đoạn kết (giết bỏ vua).
Tóm lại, trong nội chiến “chính thống” là chiêu bài; mục đích riêng mới là số một.
Ý thức hệ trong nội chiến
– Phong kiến châu Á lấy Nho Giáo (đạo Nho) làm ý thức hệ. Dù cùng ý thức hệ, hai phe trong nội chiến vẫn tận diệt nhau. Bên ngoài, hai phe đều vận dụng lý thuyết đạo này để tự bênh vực hoặc lên án phe kia. Bên trong, mỗi phe đều coi lợi ích riêng là tối thượng. Đó là trong phạm vi một nước. Nhưng giữa vua ta với vua Tàu cũng không khác..
– Hoàng đế Trung Hoa dựa vào sức mạnh coi thiên hạ (gồm An Nam) là riêng của “trẫm”. Như vậy, An Nam quốc vương – cùng ý thức hệ – phải tự coi là bề tôi của Hoàng Đế, được Hoàng Đế cho làm An Nam Quốc Vương bằng một đạo sắc phong. Tất nhiên, vua ta phải thể hiện lòng trung thành (ví dụ, nạp cống đúng kỳ). Nếu vua An Nam giữ đúng thân phận, sẽ có hai cái lợi: 1) Yên ổn làm vua nước nhỏ; không bị thiên triều can thiệp; 2) Được coi là chính danh, chính thống, vì có sắc phong. Nếu có ai cướp ngôi, hoàng đế sẽ cứu… Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy: Vua Lê Chiêu Thống dù quá đủ phận sự bề tôi, nhưng khi hoàng đế nhà Thanh đã công nhận vua mới (Quang Trung) thì vua cũ sẽ thành cỏ rác, lại còn mang tiếng xấu muôn đời. Bài học ngàn xưa: Chớ đặt ý thức hệ trên quyền lợi dân tộc.
– Tấm gương Mạc Ngọc Liễn. Sau 45 năm phục vụ triều Mạc, ông làm đến đại tướng, quận công – nghĩa là tuyệt đỉnh. Năm 1594, khi ông sắp mất, cũng là lúc nhà Mạc phải bỏ Thăng Long, lên Cao Bằng cố thủ (nhưng vẫn được nhà Minh ngầm ủng hộ); ông trối trăng lại, trong đó có một ý: “chớ nên mời người Minh vào nước ta… đó là tội không gì nặng bằng“. Con cháu ông đã làm đúng như vậy. Té ra, phe “ngụy” cũng có những con người trung nghĩa. Điều này sẽ được bàn khi nói về nội chiến Lê-Mạc.
Cướp ngôi khéo léo, tránh được nội chiến, còn được đời sau khen
– Có những cơ sở để nhận định rằng Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn đã cướp ngôi nhà Đinh với sự thông đồng của vợ vua (980). Lực lượng trung thành đã chống lại ông, nhưng nhanh chóng bị đàn áp tàn khốc. Ngay năm sau, giặc Tống xâm lược (981) bị ông đánh tan. Nhờ chiến công này, hậu thế vẫn ca ngợi ông.
Dẫu sao, vẫn có ý kiến: a) Sử sách đã nói rõ: giặc Tống xâm lược nhân cơ hội vua Đinh bị giết hại.; b) Nếu vua Đinh vẫn ở ngôi, gặp giặc Tống sang, vua vẫn thắng giặc bằng tài thao lược và sự lão luyện của các tướng (từng dẹp loạn 12 sứ quân), trong đó gồm cả Lê Hoàn, Đinh Liễn…
– Có cơ sở nghi ngờ Lý Công Uẩn đã cướp ngôi nhà Hậu Lê. Chiếu Dời Đô ra đời vì họ Lý tự thấy không thể yên ổn ở Hoa Lư – nơi hậu duệ Lê còn nhiều, còn mạnh.
Tuy nhiên, lịch sử vẫn công nhận sự nghiệp triều Lý lớn hơn cái tội cướp ngôi (nếu có).
Nội chiến do khác nhau ý thức hệ
Chỉ xảy ra ở thời hiện đại, khi có nhiều chủ thuyết (kể cả chống nhau) cùng xuất hiện, mà hai phe trong một nước lại theo đuổi những chủ thuyết đối kháng nhau. Điều này thấy rõ trongnội chiến Nga (1917-1922) hoặc nội chiến Trung Quốc (1946-1949). Nội chiến do khác biệt ý thức hệ bao giờ cũng có sự dính dáng của ngoại bang (tìm kiếm sự giúp đỡ của các cường quốc); bởi vì, thực chất ý thức hệ đối kháng ở nước nông nghiệp (Nga, Trung, Triều) đều được du nhập từ bên ngoài. Nội chiến Triều Tiên lại càng rõ vai trò ngoại bang. Quân ngoại bang (Mỹ, Trung) “xía vào” cuộc chiến này còn đông đúc hơn cả quân bản xứ. Có người bảo chiến tranh ý thức hệ mới thật là tàn bạo. Nhưng đó không phải nội dung của bài này.
Chung và riêng
Ở trên, trình bày một số tính chất chung của các cuộc nội chiến ở nước ta. Tuy nhiên, mỗi cuộc lại có những tính chất riêng. Bài học lịch sử sẽ càng cụ thể, thiết thực, nếu làm rõ những khác biệt của chúng:
– Nội chiến thời 12 sứ quân – 20 năm;
– Nội chiến Nam-Bắc triều – 59 năm
– Nội chiến Trịnh-Nguyễn – 160 năm
– Nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn – 15 năm
Bài viết được đăng bởi http://www.zeronews.us
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo