Lý thuyết vũ trụ điện và plasma
Saturday, August 15, 2015 23:58
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo
Biến đổi Trái Đất và Mối Liên hệ Con người – Vũ trụ
Tác giả: Pierre Lescaudron và Laura Knight-Jadczyk
Nguồn: Sách Earth Changes and the Human-Cosmic Connection
Dịch bởi Dấu Hiệu Thời Đại
Bão, lốc xoáy, lũ lụt, hạn hán, thời tiết quá nóng, quá lạnh, động đất, núi lửa, cầu lửa từ thiên thạch, hố sụt. Những hiện tượng “cả đời mới gặp một lần” giờ xuất hiện như cơm bữa trên khắp thế giới. Có phải đấy là do sự nóng lên toàn cầu hay một cái gì khác, khủng khiếp hơn nhiều, đang xảy ra trên hành tinh của chúng ta? Trong khi khoa học chính thống coi những biểu hiện biến đổi Trái Đất ấy là không liên quan với nhau, Pierre Lescaudron áp dụng lý thuyết Vũ trụ điện và Vật lý plasma để chỉ ra rằng chúng có liên quan mật thiết với nhau và có cùng một nguyên nhân: sự đến gần của “anh em sinh đôi” của mặt trời và đám mây sao chổi đi kèm với nó. Thông qua các dữ liệu lịch sử, hai tác giả chỉ ra sự trùng hợp giữa những thời kỳ xã hội sống dưới sự áp bức, bất công cực điểm và các thảm họa tự nhiên đến từ vũ trụ. Cuốn sách này là một nỗ lực nhằm kết nối khoa học hiện đại với hiểu biết từ cổ xưa rằng tâm trí con người và tình trạng chung của xã hội có ảnh hưởng lên các hiện tượng tự nhiên trên Trái Đất và cả ngoài vũ trụ.
Đây là một cuốn sách rất hay và quan trọng mà mình muốn giới thiệu với các bạn đọc tiếng Việt. Mình sẽ dịch dần và đăng trên blog này. Mời các bạn đón xem.
Chương 1: Vũ trụ chính thống và vũ trụ điện
Theo khoa học vũ trụ truyền thống, chuyển động của các vật thể trong hệ mặt trời được kiểm soát duy nhất bởi định luật hấp dẫn. Nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler thiết lập ba định luật về chuyển động hành tinh của ông vào đầu thế kỷ 17, khi mà điện hầu như chưa được biết đến. Benjamin Franklin thực hiện thí nghiệm diều nổi tiếng của ông 150 năm sau đó.
Vì vậy, trong thế giới của khoa học chính thống, lực hấp dẫn kiểm soát hệ mặt trời. Thêm vào đó, mặt trời phát ra chủ yếu bức xạ photon; không gian là một chân không tuyệt đối; động đất là do chuyển động kiến tạo; các hiện tượng thời tiết là do sự khác nhau giữa nhiệt độ hay áp suất không khí (hay cả hai); hoạt động của con người và các hiện tượng vũ trụ là hoàn toàn không liên quan.
Mô hình chuyển động thiên thể bởi Newton. Một mô hình cơ học về
thế giới nơi mà sự sống là một hệ thống tuyến tính trong đó mọi sự kiện
đều có thể được giản ước và giải thích bằng chuyển động cơ học.
Trong nhiều thế kỷ qua, khoa học đã xây dựng nên một hệ thống lý thuyết công phu để hợp lý hóa và giải thích hầu hết các hiện tượng tự nhiên (bao gồm cả nhiều hiện tượng không được nhắc đến trong danh sách ngắn ở trên). Theo khoa học chính thống, chúng ta đang sống trong một vũ trụ chính xác như đồng hồ, tạo ra bởi các sự kiện có thể dự đoán được và các chuyển động của thiên thể không bị xáo trộn. Hệ mặt trời là một khu bảo tồn vũ trụ, điều khiển một cách hài hòa bởi những định luật cơ học. Cuộc sống trên Trái Đất trôi đi như một dòng sông yên tĩnh, không bị gián đoạn, và sự tiến hóa tiến triển theo từng bước nhỏ qua hàng ngàn thế hệ trong môi trường tương đối yên tĩnh này.
Vấn đề là, mô hình đồng hồ này của vũ trụ có rất nhiều mâu thuẫn và không có khả năng giải thích nhiều hiện tượng có thể quan sát được. Đặc biệt, trong vài năm qua đã có sự gia tăng của những hiện tượng bất thường và cực đoan không phù hợp với các giáo điều chính thống. Khi một hiện tượng mới kiểu như vậy được quan sát thấy, khoa học chính thống chỉ đơn giản là cố gắng nhồi nhét dữ liệu thực tế quan sát được vào những lý thuyết đã có sẵn, ngay cả khi những lý thuyết đó không đủ khả năng giải thích cho hiện tượng mới.
Khi bóp méo các lý thuyết hay dữ liệu thực tế vẫn chưa đủ, khoa học chính thống đưa ra những lời giải thích rắc rối, tuyên bố đối nghịch hay những lý thuyết quá phức tạp và trừu tượng đến nỗi không có cách gì thử nghiệm xem chúng đúng hay sai. Trong những trường hợp khác, khoa học chính thống chỉ giữ im lặng khi phải đối diện với một dữ liệu quan sát – một thực tế khó chịu – mà rõ ràng không phù hợp với lý thuyết hiện hành, hay tồi tệ hơn, đe dọa lay chuyển tận nền móng của nó.
Trong khi giới truyền thông và hầu hết cộng đồng khoa học đang cố nhồi nhét mô hình vũ trụ đồng hồ này vào tâm trí mọi người, một nhóm các nhà khoa học nổi bật nhìn ra những vấn đề cố hữu trong cách giải thích truyền thống và tìm đến những mô hình hợp lý hơn: thứ có thể giải thích số lượng lớn hơn các dữ liệu thực tế quan sát được. Các nhà khoa học này cố gắng để hiểu bản chất vũ trụ bằng cách thừa nhận thành phần chính của nó: điện và plasma.
Dấu vết của trào lưu này có thể được tìm thấy từ cuối thế kỷ 19, khi tạp chí Khoa học Hoa Kỳ (Scientific American) công bố một bài viết nói rằng Giáo sư Zollner từ Leipzig gán tính chất “tự phát quang” của sao chổi cho “hiện tượng xung điện”. Zollner đề xuất rằng:
… hạt nhân của các sao chổi, do có khối lượng, chịu ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn, trong khi quầng khí tỏa ra từ chúng, bao gồm những hạt rất nhỏ, chịu ảnh hưởng bởi lực điện từ mặt trời…
Sau đó, khi nói về đuôi sao chổi, số ra ngày 11/8/1882 của tạp chí Cơ học Anh và Thế giới Khoa học (English Mechanic and World of Science) có đoạn như sau:
Dường như có một suy nghĩ đang phát triển nhanh chóng trong các nhà vật lý học rằng cả hiện tượng tự phát quang của sao chổi và đuôi của chúng thuộc về lớp các hiện tượng điện.
Năm 1896, tạp chí Tự nhiên (Nature) công bố một bài viết trong đó nêu:
Nó từ lâu đã được hình dung rằng hiện tượng đuôi sao chổi là do lực đẩy điện từ mặt trời theo một cơ chế nào đó, và những nghiên cứu vật lý gần đây đã rọi sáng thêm lên chủ đề này.
Trong nhiều thập kỷ, trường phái “plasma điện” theo đuổi các nghiên cứu của họ mà không được nhắc đến mấy bởi giới truyền thông cũng như không có các khoản tài trợ nghiên cứu lớn. Irving Langmuir, người được giải Nobel hóa học vào năm 1932, Kristian Birkeland, người bảy lần được đề cử cho giải Nobel, và Hannes Alfven, người được giải Nobel vật lý năm 1970, có thể được coi là các những người sáng lập ra môn Vũ trụ học Plasma. Ba người họ đã tiến hành nhiều thí nghiệm trong phòng thí nghiệm về tính chất của plasma và ngoại suy các kết quả của họ thông qua khả năng thay đổi quy mô (chúng tôi sẽ làm rõ điểm này trong chương 6) cho các hiện tượng vũ trụ.
Hannes Alfven, cha đẻ môn Vũ trụ học Plasma, đoạt giải Nobel vật lý năm 1970
Đây là một điểm khác giữa vũ trụ học chính thống và vũ trụ học plasma. Trường phái sau có thể thử nghiệm các giả thuyết của họ, và do đó, xây dựng nên lý thuyết vững chãi. Ngược lại, vũ trụ học chính thống, với lý thuyết vụ nổ lớn, vật chất tối, hố đen tạo ra vật chất, ba loại neutrino và sao neutron, chỉ có thể nghĩ ra các khái niệm bột phát để đối phó tình thế mà không thể thử nghiệm chúng được! Những khái niệm này cần được gọi đúng theo bản chất của chúng: suy đoán khoa học chứ không phải lý thuyết.
Ví dụ, vật chất tối chưa bao giờ được quan sát thấy trong vũ trụ. Nó được đề xuất đơn giản chỉ như một cách để cân bằng phương trình, những phương trình cho thấy vũ trụ phải có nhiều vật chất hơn những gì chúng ta quan sát được. Như vị giáo sư kỹ thuật điện đã nghỉ hưu Donald E. Scott từng nói (trích lại từ lời nhà vũ trụ học Jim Peebles từ trường Đại học Princeton):
Thật là đáng xấu hổ khi hình thức vật chất chủ đạo trong vũ trụ vẫn chỉ là giả thuyết. Tôi đề xuất những hình thức vật chất này thuộc về lớp hạt cơ bản được biết đến dưới cái tên “Fabricated Ad hoc Inventions Repeatedly Invoked in Efforts to Defend Untenable Scientific Theories (FAIRIE DUST)” (“Những Phát minh Bột phát Giả mạo Liên tục Được Đưa ra Để Bảo vệ cho Những Lý thuyết Khoa học Đang Lung lay (Hạt Cổ Tích)”).