Nemesis: Ngôi sao đồng hành của Mặt Trời
Monday, September 21, 2015 21:28
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo
Biến đổi Trái Đất và Mối Liên hệ Con người – Vũ trụ
Tác giả: Pierre Lescaudron và Laura Knight-Jadczyk
Nguồn: Sách Earth Changes and the Human-Cosmic Connection
Dịch bởi Dấu Hiệu Thời Đại
Chương 15: Nemesis xuất hiện
Như mọi người đều biết, hệ mặt trời của chúng ta được cung cấp năng lượng bởi một ngôi sao duy nhất: Mặt Trời. Thực ra, nó được giả định rằng hệ mặt trời của chúng ta chỉ có một ngôi sao duy nhất bởi vì chúng ta chỉ thấy một mặt trời mọc vào mỗi buổi sáng. Tuy nhiên, đây thực sự là một cấu hình khá đặc biệt, bởi vì hầu hết những ngôi sao mà các nhà thiên văn học đã quan sát nằm trong hệ thống đa sao (thường là sao đôi).
Dựa trên dữ liệu từ đài quan sát X-quang Chandra của NASA, người ta ước tính rằng hơn 80% các ngôi sao trong vũ trụ nằm trong những hệ thống sao đôi hay đa sao. Grazia và Milton, những người đã nghiên cứu 60 hệ thống sao gần chúng ta nhất rút ra kết luận tương tự:
61% trong số 60 ngôi sao gần nhất là một phần của hệ thống hai hoặc ba sao.
Mô hình sao đôi cho hệ mặt trời của chúng ta là một viễn cảnh hấp dẫn, bởi vì nó có thể giải thích nhiều “hiện tượng bất thường” trong giả thuyết sao đơn. Như được tuyên bố bởi Viện Nghiên cứu Sao đôi (Binary Research Institute – BRI):
… các phương trình quỹ đạo elip tỏ ra có khả năng dự đoán tốc độ tiến động tốt hơn công thức của Newcomb, cho ra độ chính xác tốt hơn nhiều trong mấy trăm năm vừa qua. Hơn nữa, một mô hình hệ mặt trời di chuyển có vẻ như giải quyết được một số vấn đề trong lý thuyết hình thành hệ thống mặt trời, bao gồm cả việc thiếu mô men động lượng của Mặt Trời. Vì những lý do này, BRI kết luận rằng có nhiều khả năng Mặt Trời của chúng ta nằm trong một hệ thống sao đôi chu kỳ dài.
Nhớ rằng những hệ thống sao đôi đề cập ở trên được tạo thành bởi các ngôi sao đủ sáng để kính thiên văn có thể phát hiện được. Điều này có nghĩa là tỷ lệ phần trăm của các hệ thống sao đôi có thể còn cao hơn nữa, do một số hệ thống có thể chứa sao “không sáng”, ví dụ như là cái gọi là “sao lùn nâu”.
Đối với các nhà vũ trụ học plasma, hệ thống sao đôi là cách dễ hiểu để những ngôi sao riêng lẻ đối phó với áp lực điện lớn, thứ thường khiến một ngôi sao lớn bị tách ra thành hai hay nhiều phần. Khi một quả cầu được chia thành hai quả cầu cùng kích cỡ, tổng khối lượng vẫn giữ nguyên (vật chất không bị mất đi) nhưng tổng diện tích bề mặt của cặp mới sẽ lớn hơn diện tích bề mặt của quả cầu đơn lẻ ban đầu khoảng 26%. Điều này làm gia tăng tổng diện tích bề mặt tiếp xúc với điện trường và do đó làm giảm mật độ dòng (ampe trên mỗi mét vuông). Do vậy, sự phân tách gây ra bởi điện cho phép ngôi sao giảm áp lực điện mà nó phải chịu bằng cách san đều nó ra cho hai hoặc nhiều ngôi sao con.
![]() |
Sirius là một sao đôi. Sirius B mờ hơn và gần Sirius A đến nỗi mãi đến năm 1862 nó mới được phát hiện.
|
Do áp lực điện tác động lên hệ thống sao đôi nhỏ hơn một sao đơn lẻ, sao lùn nâu (ngôi sao chịu điện trường yếu nên có độ sáng giảm) khá phổ biến trong các hệ thống sao đôi:
Nếu thành viên của cặp sao đôi không bằng nhau về kích cỡ, ngôi sao lớn hơn có nhiều khả năng sẽ có mật độ dòng lớn hơn – nhưng vẫn nhỏ hơn giá trị của ngôi sao ban đầu. (Giả định rằng lượng điện tích và dòng điện đến ngôi sao ban đầu chia ra hai ngôi sao mới theo khối lượng của chúng.) Trong trường hợp đó, thành viên nhỏ hơn trong cặp có thể có mật độ dòng nhỏ đến mức biến nó thành một “sao lùn nâu” hay thậm chí “hành tinh khí khổng lồ”.
Rõ ràng là sao đôi rất phổ biến, thậm chí có lẽ còn phổ biến hơn là được thừa nhận trong các tài liệu khoa học. Vậy, liệu Mặt Trời của chúng ta có phải là một hiện tượng bất thường nữa trong cái vũ trụ khá là bất thường được mô tả bởi khoa học chính thống? Có phải thực sự nó là một sao đơn không? Một manh mối quan trọng trỏ đến việc ngôi sao của chúng ta trên thực tế có thể là nằm trong một hệ thống sao đôi xuất hiện trong tạp chí Tự Nhiên (Nature) vào ngày 19 tháng 3 năm 1982 khi các nhà cổ sinh học David Raup và Jack Sepkoski công bố chu kỳ của các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt mới được phát hiện trong mẫu hóa thạch. Nghiên cứu của họ tiết lộ rằng trong 250 triệu năm trở lại đây, Trái Đất thường xuyên trải qua những sự kiện tuyệt chủng hàng loạt như được mô tả trong hình dưới.
![]() |
Biểu đồ mức độ tuyệt chủng (đơn vị hàng ngang là triệu năm trước tính từ hiện tại). |
Trong số 19 sự kiện tuyệt chủng lớn (điểm có vòng tròn), 11 sự kiện (điểm tròn màu xanh)
trùng với những đường đứt quãng thẳng đứng hiển thị chu kỳ 27 triệu năm.
Nhà vật lý học từ Berkeley, Richard Muller, phát hiện một manh mối quan trọng khác vào tháng 5 năm 1986 khi ông tập hợp số liệu về nồng độ iridium đo được tại ranh giới Eocene-Oligocene (E-O), ranh giới đánh dấu sự kiện tuyệt chủng hàng loạt xảy ra khoảng 39 đến 35 triệu năm trước, tại 66 địa điểm khác nhau trên năm châu lục có người ở. Như được đánh dấu trên bản đồ dưới, kết quả thật bất ngờ: tại tất cả 66 địa điểm đó, Muller đều thấy có nồng độ bất thường của iridium.
Iridium thì có gì mà quan trọng vậy, bạn có thể tự hỏi. Cùng với vàng, bạch kim, osmium và rhenium, iridium là một trong những “kim loại trơ” có nồng độ trong các thiên thạch cao gấp 10.000 lần nồng độ trong vỏ Trái Đất. Nhưng không chỉ có các thiên thạch mới đưa được những nguyên tố này đến Trái Đất; bức xạ khổng lồ phát ra bởi các siêu tân tinh cũng có thể tạo ra một lượng lớn các nguyên tố nặng, bao gồm cả iridium.
Vậy là trong khi nồng độ iridium bất thường ở ranh giới E-O báo hiệu rằng sự kiện tuyệt chủng hàng loạt khoảng 37 triệu năm trước đây có nguyên nhân từ vũ trụ, chúng ta vẫn phải chờ xem liệu thủ phạm là một siêu tân tinh hay một vụ bắn phá bởi thiên thạch.
Luis Alvarez là một trong những người ủng hộ giả thuyết bắn phá bởi thiên thạch. Để chứng minh, ông lập luận như sau:
Pu-244, một trong những đồng vị của plutonium, không tồn tại tự nhiên trong vỏ Trái Đất hay trong thiên thạch. Tuy nhiên, nó là một trong những nguyên tố nặng tạo ra bởi siêu tân tinh. Vì vậy, nếu các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt là do vụ nổ siêu tân tinh, chúng ta phải tìm thấy nồng độ Pu-244 cao bất thường trong mẫu vật tại các ranh giới kỷ nguyên địa chất vì nó có chu kỳ bán rã rất dài, tới 80 triệu năm. Việc phân tích nồng độ Pu-244 trong những mẫu đất sét lấy từ ranh giới E-O dẫn đến kết luận như sau:
Không có plutonium. Siêu tân tinh không phải là thủ phạm giết hại các con khủng long. Kết quả này về sau được công bố trong một bài viết với tựa đề “Kết quả phủ nhận giả thuyết siêu tân tinh”. Trong bài viết này, họ [Alvarez và các cộng sự] mô tả việc các dữ liệu đo đạc cho thấy không có chút plutonium-244 nào, và tại sao kết quả này loại trừ lý thuyết siêu tân tinh…
Nếu không phải là siêu tân tinh thì nguyên nhân khả dĩ duy nhất là bắn phá bởi sao chổi hoặc tiểu hành tinh (chúng ta có thể sử dụng hai thuật ngữ này thay thế cho nhau như tôi sẽ giải thích trong chương 18). Kể từ đó, nhiều nhóm nghiên cứu, kể cả nhà thiên văn học từ trường Đại học Louisiana, tiến sĩ Daniel Whitmire, và nhóm Mellot và Bambach, đã xuất bản những bài viết xác nhận rằng bắn phá bởi thiên thạch thực sự là nguyên nhân của sự kiện tuyệt chủng hàng loạt trên Trái Đất này.
Một khi nó đã được xác nhận rằng đa số các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt theo chu kỳ là do tiểu hành tinh, một câu hỏi khác xuất hiện: cơ chế chính điều khiển các vụ bắn phá theo chu kỳ bởi tiểu hành tinh này là gì? Chúng ta có thể loại trừ ý tưởng cho rằng một tiểu hành tinh duy nhất hoặc một đám mây tiểu hành tinh có thể đi theo một quỹ đạo ổn định với chu kỳ 27 triệu năm.