Các chu kỳ chiến tranh của nước Mỹ
Monday, May 23, 2016 22:04
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Chiến tranh Triều tiên (1950-1953). Triều tiên bị chia làm đôi sau chiến tranh thế giới thứ hai, một nửa chịu ảnh hưởng của Liên xô và một nửa chịu ảnh hưởng của Mỹ. Năm 1950, quân đội Bắc Triều tiên bất ngờ tấn công xuống phía nam nhằm thống nhất đất nước và đã chiếm được tới 90% lãnh thổ Nam Triều tiên. Lo ngại về ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản và lợi dụng Liên xô đang tẩy chay Liên hiệp quốc, Mỹ đã yêu cầu Liên hiệp quốc thông qua nghị quyết lên án cuộc chiến tranh của Bắc Triều tiên và dẫn đầu liên quân các nước can thiệp vào chiến tranh. Sau khi đẩy lùi quân đội Bắc Triều tiên khỏi vĩ tuyến 38 (ranh giới hai miền trước đây), liên quân vẫn tiếp tục đánh lên phía bắc, áp sát dần biên giới Trung quốc. Đến lượt Trung quốc lo ngại về an ninh của mình và đã điều gần một triệu quân giúp Bắc Triều tiên. Quân đội Trung quốc đã đẩy lùi được quân Mỹ và đồng minh trở lại vĩ tuyến 38. Cuộc chiến tranh sau đó được dàn xếp bởi Liên Hiệp Quốc.
Chiến tranh Việt nam (1965-1973). Tổng thống Kenedy đã tăng cường can thiệp vào chiến tranh Việt nam ngay sau khi nhậm chức tổng thống năm 1961. Nhưng đến năm 1965, tổng thống Johnson đã đẩy mạnh can thiệp, ném bom miền Bắc và một lực lượng khổng lồ lính Mỹ, gồm 550 000 quân tham chiến đã được đưa vào chiến trường miền Nam. Sự can thiệp không thành công như người Mỹ mong đợi. Số lính Mỹ bị chết trên chiến trường tăng nhanh từng ngày, phong trào phản chiến lan rộng. Năm 1973 Mỹ đã rút toàn bộ quân đội khỏi miền Nam Việt nam. Năm 1975, chính phủ thân Mỹ tại miền Nam đã bị sụp đổ nhanh chóng.
Đây là một trong những thất bại nặng nề hiếm hoi trong lịch sử quân sự Mỹ và đã khiến nước Mỹ rơi vào thời kỳ trầm cảm trong một thời gian khá dài. Tuy vậy, xét về đại cục, người Mỹ không hoàn toàn thất bại. Những nỗ lực đó dù sao cũng duy trì vị thế thủ lĩnh của nước Mỹ trong thế giới tư bản và tạo thế cân bằng với phong trào Cộng sản.
Chiến tranh Irak 1991. Năm 1990, Irak xâm lược Koweit nhằm chiếm giữ nguồn dầu mỏ rất lớn ở đây. Liên Hiệp quốc đã nhanh chóng thông qua nghị quyết lên án Irak. Tháng giêng năm 1991, liên quân của Liên Hiệp Quốc với Mỹ đứng đầu đã đổ bộ vào Koweit và nhanh chóng giải phóng quốc gia này khỏi Irak. Cuộc chiến tranh kéo dài khoảng một tháng với ưu thế tuyệt đối của liên quân. Tuy vậy, cuộc chiến tranh chỉ giới hạn trong phạm vi giải phóng Koweit. Chính quyền Saddam Hussein vẫn tồn tại sau đó và là nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến Irak lần thứ hai sau này.
Cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố (2001-2003). Ngày 11 tháng 9 năm 2001, lực lượng khủng bố Al Queda đã cướp các máy bay dân dụng và tấn công vào nhiều mục tiêu quan trọng, biểu tượng quyền lực quân sự, chính trị và kinh tế của nước Mỹ khiến hàng ngàn người thiệt mạng. Tổng thống Bush đã phát động cuộc chiến chống khủng bố và được các quốc gia trên thế giới ủng hộ. Quân đội Mỹ và NATO đã tấn công vào Afghanistan, quốc gia ủng hộ Al Queda và là nơi Al Queda đóng căn cứ. Chính quyền Taliban sụp đổ nhanh chóng nhưng người Mỹ đã không thể diệt được tận gốc lực lượng Al Queda ẩn náu ở các vùng rừng núi.
Tổng thống Bush sau đó quyết định tấn công Irak lần thứ hai vì cho rằng quốc gia này hậu thuẫn khủng bố và sở hữu vũ khí giết người hàng loạt. Quyết định này không nhận được sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc và bị nhiều nước phản đối gay gắt. Bất chấp điều đó chính quyền Bush vẫn tiến hành cuộc chiến năm 2003 và nhanh chóng lật đổ Saddam Hussein. Tuy vậy, cho đến năm 2008 nước Mỹ vẫn bị sa lầy vào cuộc chiến tranh du kích tại cả Afghanistan và Irak.
Có vẻ như các cuộc chiến tranh của nước Mỹ đã xảy ra theo những chu kỳ nhất định.
Chu kỳ 24 năm.
Sau mỗi hai tư năm, có thể có sai lệch trong phạm vi nào đó, nước Mỹ lại có một cuộc chiến tranh do người Mỹ chủ động tiến hành. Đó là các năm:
1774 Chiến tranh giành độc lập. Mặc dù chiến tranh thực sự bắt đầu từ 1775 nhưng tình trạng căng thẳng đã bắt đầu từ 1774 và sự liên kết các vùng thuộc địa Bắc Mỹ để đòi độc lập đã bắt đầu từ năm này.
1798 Cuộc chiến không tuyên bố với nước Pháp.
1822 Cuộc chiến Seminole lần thứ nhất đã kết thúc năm 1818 nhưng tình trạng chiếm đóng quân sự trái phép còn tiếp tục đến năm 1821 trước khi Florida chính thức thuộc về Mỹ. Tuy vậy vẫn có sai lệch một năm so với chu kỳ chuẩn.
1846 Chiến tranh Mỹ- Mê hi cô.
1870 Không có cuộc chiến nào xảy ra. Tuy nhiên, các bang miền Nam vẫn đang ly khai và chế độ quân sự được duy trì tại các bang này có thể coi là đáp ứng quy luật.
1894 Chiến tranh Mỹ-Tây ban nha sai lệch bốn năm so với quy luật.
1918 Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
1942 Chiến tranh thế giới lần thứ hai
1966 Chiến tranh Việt nam
1990 Chiến tranh Irak xảy ra đầu năm 1991 nhưng các bước chuẩn bị đã được tiến hành từ năm trước đó.
Cũng rất đáng chú ý là đồng thời hoặc sau các cuộc chiến tranh này nước Mỹ có một sự mở rộng lãnh thổ rất đáng kể.
Sau chiến tranh giành độc lập, các vùng thuộc địa trở thành các bang độc lập và sau đó Hợp chủng quốc Hoa kỳ ra đời.
Sau chiến tranh không tuyên bố, nước Mỹ đã mua hai triệu ki lô mét vuông từ người Pháp (Louisiana Purchase) năm 1803. Việc mua bán này hoàn toàn không liên quan đến chiến tranh. Đơn giản là hoàng đế Napôlêông của nước Pháp khi đó rất cần tiền và tiên liệu khả năng không thể duy trì thuộc địa tại Bắc Mỹ nên đã đặt vấn đề bán lãnh thổ này với Mỹ. Vùng đất được mua có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước Mỹ nên tổng thống Jefferson, người đã quyết định mua bất chấp rất nhiều ý kiến phản đối sau này luôn được đánh giá là một trong những tổng thống xuất sắc nhất nước Mỹ, sánh ngang với Washington, Lincoln…
Sau cuộc chiến Seminole, nước Mỹ mua Florida.
Sau chiến tranh Mỹ-Mêhicô, nước Mỹ mua hơn một triệu ki lô mét vuông từ Mê hi cô và sát nhập Texas
Năm 1867 Mỹ mua Alaska từ nước Nga. Rất nhiều người Mỹ cũng đã phản đối việc mua vùng đất băng giá quanh năm này. Nhưng sau đó ít lâu vàng và dầu mỏ đã được tìm thấy ở đây.
Sau chiến tranh Mỹ-Tây ban nha, nước Mỹ được bồi thường Puerto-Rico, Guam và mua Philippin.
Như vậy nếu tính trung bình, sự hình thành và mở rộng lãnh thổ Mỹ cũng diễn ra theo chu kỳ hai tư năm.
Trong thế kỷ hai mươi, quá trình mở rộng lãnh thổ không xảy ra nhưng thay vào đó là sự mở rộng ảnh hưởng của nước Mỹ trên trường quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Mỹ trở thành chủ nợ của Châu Âu. Nước Mỹ đã có ảnh hưởng mạnh về kinh tế đối với thế giới.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Hiệp Quốc ra đời với hệ thống luật pháp có nền tảng khá giống với luật pháp Mỹ. Nước Mỹ đã được lợi rất lớn từ sự tương đồng này. Thực ra có thể nói nước Mỹ đã áp đặt thành công luật pháp của mình lên luật pháp quốc tế. Nước Mỹ cũng trở thành trung tâm khoa học của thế giới.
Trong thời gian chiến tranh Việt nam, hệ thống thuộc địa của Tây Âu tan rã, thế giới chia làm hai nửa. Mỹ trở thành trụ cột của một nửa thế giới và lý tưởng tự do của nước Mỹ có ảnh hưởng mạnh đến nửa thế giới này.
Đồng thời với chiến tranh Irak, hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu và Liên xô tan rã. Thế giới trở nên đơn cực. NATO bắt đầu đông tiến, kết nạp các nước trước kia nằm trong ảnh hưởng của Liên xô và đang có ý định kết nạp cả một số quốc gia thành viên của Liên xô trước đây.
Như vậy, nối tiếp quá trình phát triển lãnh thổ, quá trình phát triển ảnh hưởng của nước Mỹ trên trường quốc tế cũng diễn ra theo các chu kỳ hai tư năm.
Chu kỳ 48 năm. Sau xấp xỉ 48 năm nước Mỹ lại có một cuộc chiến tranh không mong muốn. Nước Mỹ bước vào các cuộc chiến này trong tình trạng tương đối thụ động.
Chiến tranh 1812. Quân đội Mỹ khi đó khá yếu và nước Mỹ bước vào cuộc chiến tranh trong tình trạng bị chia rẽ nghiêm trọng. Một số bang nước Mỹ đã lợi dụng chiến tranh, buôn bán với nước Anh để trục lợi. Nước Mỹ chi phí không nhỏ cho cuộc chiến này nhưng đã không đạt được điều mong muốn.
Nội chiến 1861. Các bang miền Nam đã ly khai và nổ súng trước khiến các bang miền Bắc phải tham gia chiến tranh.