Ai đã đưa Việt Nam lên vị trí thống trị ngành sản xuất điều thế giới?
Tuesday, December 19, 2017 17:42
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Doanh nhân Phạm Thị Mỹ Lệ chính là một trong những người đầu tiên xây dựng nhà máy chế biến hạt điều của Việt Nam. Trước đó, bà đã nhiều năm mua hạt điều thô ở Bình Phước và rồi bán cho các bên trung gian, bên trung gian chuyển nó sang Ấn Độ.
Từ năm 2000 đến năm 2007, ở lúc cao điểm, nhà máy của bà Mỹ Lệ tuyển dụng đến 2.000 công nhân, rất nhiều trong số đó là những nông dân đã rời làng quê họ ở các tỉnh phía Bắc vào đây làm thuê.
Bà Mỹ Lệ biết ông Lãng sản xuất được máy tách vỏ hạt điều. Thế nhưng khi đó, người doanh nhân này không thấy cần phải mua nó về cho đến một ngày bà chợt nhận ra: Công nhân của bà đang bỏ bà mà đi.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phát triển. Nhiều công nhân của bà Lệ trở về phía Bắc làm việc trong các công ty FDI để được sống gần quê nhà và hưởng mức lương thấp hơn. Nhà máy của bà Lệ bắt đầu thiếu nhân công.
Cuối cùng bà Lệ quyết định mua máy do ông Lãng sáng chế ra và đưa vào dây chuyền sản xuất. Hiệu quả sản xuất tăng cao đột biến.
Giờ đây, toàn bộ nhà máy của bà chỉ cần đến 170 công nhân. Họ sản xuất mỗi ngày 66 nghìn pound hạt điều, tương đương khối lượng của khoảng 2.000 công nhân trước đây.
Cuộc sống của công nhân cũng khác trước nhiều. Giờ đây, chất lượng cuộc sống của họ tốt hơn trước, họ mang theo cả gia đình, con cái họ được đi học, chữa bệnh.
Một doanh nhân khác, ông Lê Quang Luyến, đã mạnh tay đầu tư hơn nữa phát triển công nghệ. Ông đã đầu tư hơn 40 triệu USD để xây dựng nhà máy công nghệ cao. Nhà máy này có thể sản xuất khoảng 110 nghìn pound hạt điều mỗi ngày với chỉ 30 công nhân.
Nhà máy của ông có công cụ vô cùng hiện đại với thiết bị sản xuất công nghệ cao, băng chuyền, máng trượt, thiết bị cảm biến và phân loại sản phẩm tự động.
Khi kinh đô hạt điều thế giới “thất thủ”
Cùng lúc đó tại Kollam, sau khi giành được vị thế hàng đầu trong ngành điều, những lãnh đạo địa phương đã không bắt kịp xu thế của thế giới, ngoài ra cũng bởi họ không muốn công nhân địa phương mất việc.
Giám đốc điều hành công ty Kerala State Cashew, ông R. Rajesh, tuyên bố: “Khi hoạt động cơ giới hóa diễn ra, ai mất việc? Chính là những người nghèo của chúng tôi.” Ngay cả các công ty tư nhân cũng bị cấm không được tự động hóa dây chuyền sản xuất, sa thải công nhân, chính vì vậy họ không thể cắt giảm được chi phí sản xuất.
Chính phủ Ấn Độ tiếp tục đưa ra chính sách sai lầm hơn nữa. Để bảo vệ cho những người sản xuất hạt điều, năm 2006, chính phủ Ấn Độ áp thuế 9% đối với hạt điều thô nhập khẩu. Chính quyền bang Kerala tăng lương 35% cho nông dân sản xuất hạt điều. Mỗi người nông dân như vậy kiếm được 5,40 USD/ngày. Như vậy các nhà chính trị gia đã thực hiện đúng cam kết tranh cử của họ trước đây.
Những quyết định tưởng như tuyệt vời và đảm bảo quyền lợi cho người nông dân sản xuất hạt điều như vậy đã gây ra thảm họa cho Kollam. Những nhà sản xuất tư nhân chuyển hoạt động sản xuất của họ ra các bang khác của Ấn Độ nơi mức lương lao động thấp hơn và họ có thể dễ dàng cơ giới hóa hoạt động sản xuất.
Những công ty nhà nước do chính quyền thành phố Kollam thành lập ra không thể chuyển được sản xuất, chính vì vậy thua lỗ triền miên. Giờ đây, mỗi công nhân của nhóm doanh nghiệp này chỉ được làm việc 165 ngày/năm chứ không phải 200 ngày/năm như trước đây.
Khi mức lương tối thiểu tăng 35%, công ty phải trả lương cho công nhân trung bình cao hơn 22% nhưng hiệu năng sản xuất lại thấp hơn 18%. Các công ty của chính quyền thành phố Kollam cho biết họ đã làm tất cả để giữ được việc làm cho người lao động. Chi phí đội lên quá cao, họ không tránh khỏi phải sa thải dù đó là lựa chọn tồi tệ nhất. Giờ đây, số công nhân làm việc tại nhà máy chỉ bằng nửa so với thời điểm năm 2010.
Sản phẩm của Ấn Độ có giá quá cao, không cạnh tranh được, chính vì vậy xuất khẩu giảm không ngừng. Theo Bộ Nông nghiệp Ấn Độ, sản lượng nhân điều xuất khẩu năm ngoái giảm đến 38%.
Trong lúc đó, Việt Nam sản xuất được 1,4 triệu tấn hạt điều thô, cao hơn gấp đôi sản lượng của năm năm trước đó, theo công bố của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Xuất khẩu nhân điều tăng gấp đôi trong thời gian trên lên 348 nghìn tấn.
Ngành điều Việt Nam đang phát triển tốt, tuy nhiên không phải tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp. Khi người Việt Nam giàu lên, nhiều quỹ đất đã bị chuyển đổi mục đích, chính vì vậy, các nhà máy sản xuất phải tính đến nhập khẩu.
Đó là chưa kể đến việc khi nhiều công ty sản xuất hạt điều Việt Nam đến thu mua hạt điều thô tại châu Phi, họ luôn nhận được một yêu cầu từ chính quyền địa phương: Phải tiết lộ nơi họ đã mua máy móc để chế biến hạt điều. Chắc chắn, cạnh tranh sẽ tăng cao hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, và bên nào không thích ứng kịp sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc chơi.
Bài viết được thực hiện bởi hai tác giả Bill Spindle và Vibhuti Agarwal được đăng trên Wall Street Journal.
Bài viết được đăng bởi http://www.zeronews.us
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo