ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits: 1,687,538,006
Stories: 8,389,452
Profile image
1
0
Tác giả: ZeroEnergyVN
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước: 1
24h trước: 1
Tổng số: 22
Sau hơn 500 năm kể từ khi Phật nhập diệt, PG Đại Thừa mới xuất hiện
Thursday, May 28, 2015 3:13
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
: Theo trang mạng của Thư viện Hoa sen: Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan Đà kết tập kinh điển và được đại chúng nhất trí. Tôn giả A Nan Đà lần lượt kết tập các kinh sau đây: Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng kỳ đà, Sa môn quả, Phạm động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo,Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Những kinh dài kết tập thành một bộ gọi là Trường A hàm. Những kinh trung bình kết tập thành một bộ gọi là Trung A hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di được kết tập thành một bộ gọi là Tạp A hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng nhất A hàm. Các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp tạng. Thế rồi tôn giả Ma Ha Ca Diếp tuyên bố: Chúng ta đã kết tập xong giáo pháp. Đây là các tài liệu cỗ nhất, đánh dấu bước đầu hình thành Chánh tạng Pãli. Như vậy đức Phật không có dạy kinh Đại thừa cho 10 Đại đệ tử của Ngài.
Luận cứ 12*: Điều ngự giác hoàng, Trúc lâm thiền tổ Trần Nhân Tông cho rằng: kinh Vô lượng thọ của Đại thừa không phải là lời Phật dạy, qua hai câu sau đây của bài phú: “Cư trần lạc đạo”:
Tịnh Độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương
Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc
Luận cứ 14: Nalinaksha Dutt viết: “Tập kinh Saddharmapundarika, thuộc kinh Pháp hoa của Đại thừa, dùng hai lời tuyên bố của Phật, trong kinh Nguyên thủy để chứng minh kinh Đại thừa là lời dạy của Phật”.
* Lời tuyên bố thứ nhất của đức Phật là: Sau khi giác ngộ, Phật ngần ngại không biết có nên truyền thuyết giáo pháp cho đại chúng hay nhập Niết bàn?
Tăng sĩ Đại thừa giải thích là: giáo lý Đại thừa quá cao siêu nên Phật mới ngần ngại ?.
* Lời tuyên bố thứ hai của đức Phật là: Phật giảng chánh pháp không nhất luật phải như nhau.
Tăng sĩ Đại thừa giải thích là: Phật muốn giảng dạy giáo lý Nguyên thủy trước, rồi sau đó, sẽ giảng giáo lý Đại thừa sau ?
Dùng kinh Nguyên thủy để biện minh: ‘Nguồn gốc kinh Đại thừa’ rất là hay, rất là “logic”. Thế nhưng trong trường hợp nầy, cách giãi thích trên rất gượng ép, không rõ ràng, vì hai câu kinh trên có thể giải thích theo nhiều ý nghiã khác hẳn.
Luận cứ 15: Tiến sĩ thiền sư Suzuki viết: “Kinh Đại thừa không phải là lời dạy chính xác của đức Phật, nhưng các tăng sĩ Đại thừa rất hãnh diện về sự kiện nầy, vì đó là một sức mạnh tôn giáo linh động.
Luận cứ 16: J.R. O’Neil viết: “Kinh của Đại thừa hoàn toàn khác hẳn về văn phong, âm điệu, nhưng chúng được nhiều người theo phong trào mới chấp nhận là “Phật ngôn” vì nhiều lý do:
A* Thứ nhất, họ tin rằng đức Phật vẫn hiện hữu, sau khi nhập diệt. Vì thế
Đức Phật vẫn có thể truyền giảng kinh Đại thừa cho cao tăng, qua việc hành thiền, nhập định của các vị nầy.
* Nghi vấn: trong ảo mộng, tăng sĩ lầm tưởng là được Phật truyền dạy kinh Đại thừa? Tương tự, nhiều Giáo chủ của ngoại đạo cũng tự nhận là được Thượng đế truyền đạt giáo chỉ? Thực hay hư?
B* Thứ hai, kinh Đại thừa được xem như sản phẩm từ tuệ giác của các cao tăng đã hoàn toàn giác ngộ cho nên cần được xem như là lời dạy của Phật.
* Nghi vấn: Ngài Thế Thân cũng nói như trên. Xem luận cứ kế tiếp, số 17. Thế nhưng làm sao biết được bài kinh nào là của Thánh tăng sáng tạo và bài kinh nào là của Phàm tăng tạo dựng như kinh: Lâu đài trinh phụ, Dutiyapatibbatà-Vimàna.
C* Thứ ba, kinh Đại thừa là lời giảng của đức Phật, nhưng đã được dấu đi tại quốc độ của các loài thần rắn (Naga, Long vương), cho đến khi nào loài người đủ kiến thức, có thể hiểu được tầm mức quan trọng của kinh thì mới thỉnh được chúng.
* Nghi vấn: Đức Phật không có dạy kinh Đại thừa cho 10 Đại đệ tử của Ngài. Như vậy đức Phật cũng không có dạy kinh Đại thừa cho bất cứ ai. Hơn nữa mang kinh sách đi cất dấu? thì sau nầy, hậu sinh làm sao tìm cho được?
Luận cứ 17: Ngài Thế Thân viết quyển sách: “Pháp tướng Duy thức học” rất nổi tiếng. Ngài đã làm cho Phật giáo Đại thừa phát triễn mạnh mẽ vào thế kỹ thứ tư. Về nguồn gốc kinh Đại thừa, ngài nói: “Có thể kinh Đại thừa là do một vị nào đó ? viết ra và vị đó ? ắt hẳn đã chứng quả Bồ đề như Phật Thích Ca và như vậy kinh Đại thừa cũng phải được xem như là lời Phật dạy”. Câu nói của ngài Thế Thân chứng tỏ là ngài cũng tin là kinh Đại thừa, có thể do cao tăng nào đó viết ra.
Luận cứ 18: Theo kinh A hàm, Tăng chi bộ 1, Phật dạy Thiền chỉ, Samatha để định tâm. Đó là: Niệm Thiên, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm trược, niệm tịnh … Phật giáo Đại thừa suy diễn từ pháp tu: “Niệm” nói trên và sửa đổi lại, thành ra: niệm Phật A Di Đà, niệm Bồ tát Quán Thế Âm để vừa định tâm, vừa cầu xin cứu độ.
Như vậy kinh Đại thừa là sự suy diễn từ kinh Nguyên thủy.
Luận cứ 19: Tăng sĩ Nguyên thủy có đầy đủ lịch sử, kinh sách, tài liệu để chứng minh kinh Nguyên thủy là lời dạy của đức Phật. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp và A Nan Đà kết tập lời Phật dạy một cách trung thực, ngắn gọn, rõ ràng, không thêm, không bớt tại động Thất Diệp để hoàn tất giáo pháp và luật lệ tu hành của đạo Phật. Trong lần kết tập thứ hai, giáo pháp (Dhamma) bị tách ra làm hai và được sắp xếp lại cho thứ tự, gọn gàng trong 3 tạng Tipitaka (basket). Đó là: Tạng kinh (Suttanta), tạng vi-diệu (Abhidhamma) và tạng luật (Vinaya) tức là Tam tạng Pãli. Chánh tạng nầy là căn bản tu học của đạo Phật Nguyên thủy.
Luận cứ 20: Ngược lại, tăng sĩ Đại thừa không có một chứng cớ cụ thể nào để chứng minh kinh Đại thừa là “Phật ngôn” (Buddhavaccana). ngoại trừ những dẫn chứng siêu nhiên, thần bí, như theo luận cứ số 6 và 16.
Không thể phản bác, tăng sĩ Đại thừa chỉ có thể chứng minh là có một số bài kinh của Nguyên thủy, cũng không phải là Phật ngôn như: kinh Na tiên, kinh Điạ ngục, kinh Lâu đài trinh phụ (Dutiyapatibbatà-Vimàna) vân vân.
Kết luận
Phật giáo Nguyên thủy có hai loại kinh.
A* Loại kinh thứ nhất do Phật thuyết như: kinh Voi rừng, kinh Hạnh con chó, kinh Người áo trắng, kinh Lời vàng, kinh Chiếc bè, kinh Cái nồi đất, kinh Thanh tịnh, kinh Phước đức, kinh Từ bi vân vân … và …
B* Loại kinh thứ hai do cao đồ, cao tăng biên soạn như: kinh Na tiên, kinh Điạ ngục, kinh Lâu đài trinh phụ (Dutiyapatibbatà-Vimàna) vân vân.
Ngược lại, Phật giáo Đại thừa chỉ có một loại kinh duy nhất.
Đó là các kinh sau đây: Hoa nghiêm, Bát nhã, Pháp hoa, Kim cang, Vô lượng thọ, Lăng nghiêm, Viên giác vân vân.
Loại kinh nầy là do các Tổ sư của Phật giáo như: Ngài Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân … suy diễn và thêm thắt kinh Nguyên thủy để viết ra kinh Đại thừa, ở thế kỹ thứ nhất của Tây lịch, sau hơn 500 năm, kể từ khi Phật nhập diệt.
Sự việc cũng tương tự như Ngài Huệ Năng, cũng suy diễn từ kinh Nguyên thủy để viết ra kinh Pháp-Bảo-Đàn, ở thế kỹ thứ 7.
Phụ chú:

Lịch sử phát triển Phật giáo
Trong lần kiết tập kinh điển lần thứ hai, vào khoảng 100 năm, sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, Phật giáo Nguyên thủy bị phân hoá thành hai bộ phái chính yếu. Đó là:
Mahāsanghika, Đại Chúng Bộ và Theravāda, Thượng Toạ Bộ.
Về sau, hai bộ phái trên lại bị phân hoá thêm nữa, thành ra 18 bộ phái.
Mahāsanghika, Đại Chúng Bộ chủ trương cấp tiến.
Để có thể truyền bá đạo Phật cho đại chúng, Đại Chúng Bộ đã phải sửa đổi một vài giáo lý của đức Phật để thích nghi với điều kiện sinh sống, phong tục, tập quán của từng điạ phương.
Theravada, Thượng Toạ Bộ chủ trương bảo thủ.
Vì thế tương đối, vẫn còn giữ nguyên lời dạy của đức Phật như: Vẫn tu học Tứ niệm xứ, tu thiền Minh sát tuệ và tu hành theo gương của Phật như: trì bình bát, đi khất thực, không mang giầy dếp, đấp cà sa vàng như Phật, đọc kinh bằng ngôn ngữ của Phật thay vì bằng tiếng điạ phuơng …
Phật giáo Nguyên thủy của đức Phật khi xưa và Phật giáo Theravada ngày nay không hẳn là giống hệt như nhau. Nhưng Theravada vẫn được gọi là Phật giáo Nguyên thủy để phân biệt với Phật giáo Đại thừa.
Căn bản chủ yếu trong việc tu hành của Phật giáo Nguyên thủy là hành Thiền, giống như đức Phật khi xưa, hành thiền dưới cội Bồ đề.
Đó là:
Thiền Chỉ tịnh, Samatha và Thiền Quán minh, Vipassana. (còn gọi là thiền Minh sát tuệ)
Phật giáo Đại thừa giới thiệu nhiều vị Phật và Bồ tát trong kinh A Di Đà, kinh Pháp hoa, kinh Vô lượng thọ … để chúng sinh thờ phượng và để đáp ứng nhu cầu tâm linh của Phật tử, là muốn có tha lực thiêng liêng phò trì.
Vì thế,
Căn bản chủ yếu trong việc tu hành của Phật giáo Đại thừa là:
Niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh và Niệm hồng danh Bồ tát để xin cứu độ.
Bài viết được đăng bởi http://www.zeronews.us

Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo

Prev12View as Single Page
Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story
If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.