TÂm ThỨc LÀ VỊ LƯƠng Y TỐt NhẤt
Friday, September 4, 2015 20:44
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
(Trên một bình diện thật bao quát, tất cả các phép luyện tập thiền định – dù là của Phật giáo Theravada, Thiền Zen hay Tan-tra thừa – đều gồm có hai thể dạng hỗ trợ cho nhau: sự tĩnh lặng tâm thần và sự quán thấy. Có nghĩa là trước hết phải tạo ra các điều kiện thuận lợi mang lại sự trong sáng và tĩnh lặng cho tâm thức, tạo điều kiện giúp mình quán thấy bản chất của hiện thực là gì và vị trí của mình ở đâu trong thế giới hiện thực đó, và sự quán thấy ấy có thể hiểu như là một sự giác ngộ. Tóm lại thể dạng “chú tâm và tĩnh lặng tâm thần” là điều kiện thiết yếu giúp người tu tập “quán thấy bản chất của hiện thực” mang lại sự giải thoát và giác ngộ cho mình. Cũng tương tự như thế: giai đoạn đầu tiên trên con đường tu tập Phật giáo nói chung là sự giữ gìn đạo đức và phát huy lòng từ bi – còn gọi là tu giới, giúp mang lại cho mình một cuộc sống tinh khiết và trong sáng, đó là điều kiện tiên quyết không thể thiếu sót hầu giúp mình có thể bước vào đoạn đường thứ hai, thênh thang và sáng sủa hơn – gọi là giai đoạn tu tuệ, tức là giai đoạn giúp mình phát huy sự hiểu biết siêu nhiên mang lại cho mình sự giải thoát và giác ngộ).
Các đối tượng của việc luyện tập
Dựa vào phép quán thấy hệ thống vận hành của thân xác tinh tế gồm ba kinh mạch chính – theo truyền thống luyện tập của Ấn Độ – người hành thiền sẽ sử dụng hơi thở ra để tống khứ các cấu trúc khí lực của sự hoang mang. Trước hết người hành thiềm kềm giữ không khí [trong phổi] và sau đó thở ra thật mạnh, đồng thời thì dồn sự chú tâm vào các sự bấn loạn, hoang mang hay các khó khăn mà mình muốn tống khứ. Người luyện tập có thể hóa giải các sự hoang mang ở một cấp bậc thật tinh tế bằng phép luyện tập về chín phép hô hấp tinh khiết hóa (xem phụ lục 2). Phép luyện tập này được dựa vào cách quán thấy hệ thống ba kinh mạch chủ yếu dẫn truyền các luồng khí lực (xem sơ đồ). Phép luyện tập này đòi hỏi người hành thiền phải bén nhạy hầu giúp mình nhận biết và xác định được thật rõ ràng các sự “bấn loạn” mỗi khi chúng được hồi tưởng lại trong tâm thức mình (tức là nhớ lại các sự bấn loạn đã từng xảy ra với mình từ trước) hoặc trong giai đoạn đầu tiên khi chúng bất thần hiện lên trong tâm thức mình (các bấn loạn mới đang phát sinh).
Sự xác định các xúc cảm nhờ vào sự tiếp xúc giữa thân xác, ngôn từ và tâm thức
Nhà sư Tây Tạng Tenzin Wangyal Rinpoché trong quyển Sự Giác Ngộ của thân xác thiêng liêng (L’Eveil du corps sacré, Éditions Claire Lumière, 2012) có nói như sau : “Một khi bạn nối kết được với sự tĩnh mặc, sự im lặng và bầu không gian tri thức, thì đấy cũng có nghĩa là bạn đã khám phá ra đúng chỗ giúp mình suy tư về một sự thách đố hay một sự khó khăn nào đó xảy ra gần đây trong cuộc sống của mình. Hãy cứ đón tiếp sự khó khăn đó trong tâm thức, trực tiếp nối kết với nó. Nhờ vào một thân xác bình lặng và một tâm thức minh mẫn bạn sẽ có thể tiếp xúc với nó đúng với những gì mà bạn cảm nhận được. Bạn nên cảm nhận các sự căng thẳng, xao động và các xúc cảm hiện ra với mình chỉ là như thế! […]. Đối với ngôn từ tức là lãnh vực tiếp xúc thứ hai thì cũng vậy: khi nào giữ được sự im lặng và ý thức được chính sự im lặng ấy của mình, thì các luồng khí lực bên trong cơ thể cũng sẽ theo đó mà lắng xuống (các luồng khí lực không phát lộ thành ngôn từ). Khi nào bạn cảm thấy là mình đã nối kết được với các luồng khí lực bấn loạn bên trong sự im lặng ấy, thì có nghĩa là bạn đã xác định được chúng một cách đúng đắn. Thế nhưng nếu bạn cứ tiếp tục ăn nói ba hoa bên trong nội tâm mình (suy nghĩ miên man) thì sự xác định [các sự bấn loạn] của bạn sẽ không được đúng đắn (sự suy nghĩ miên man sẽ tạo ra đủ mọi thứ xúc cảm). Thật ra thì cũng thật khó thực hiện được ngay tức khắc sự im lặng sâu xa ấy. Dầu sao đi nữa thì ít ra bạn cũng phải [đủ sức] chú tâm vào sự im lặng nằm bên cạnh sự ba hoa đó của bạn, thay vì chỉ biết theo dõi những gì chất chứa trong sự ba hoa ấy […] Tâm thức phải luôn an trú trong bầu không gian của tri thức tinh khiết và mở rộng. Điều đó có nghĩa là phải biết tạo ra cho mình một sự nghỉ ngơi đối với cái tôi của mình (không chạy theo cái tôi, cũng không để cho nó chỉ huy và lôi cuốn mình, nói cách khác là tìm cách “ngưng chiến” với nó). Không nên lo nghĩ tại sao mình lại rơi vào các tình trạng xung đột ấy. Tất cả các thứ thắc mắc ấy đều nằm sẵn bên trong tâm thức mình (bởi vì do mình tạo ra chúng), Và nếu tư duy đã nằm sẵn trong ấy, thì cứ để yên chúng trong ấy (không nên để cho chúng phát lộ dưới các hình thức xúc cảm, ngôn từ hay hành động). Trong học phái Dzogchen (Đại Cứu Kính) có một câu tục ngữ rất nổi tiếng như sau: “Cứ để mặc những gì như thế là như thế”. Trong bầu không gian của tri thức tinh khiết đó bạn sẽ có thể tiếp xúc được với luồng khí lực chuyển tải các sự bấn loạn”.
Đấy là cách giúp một người hành thiền nối kết với luồng khí lực thô thiển của sự bấn loạn qua sự tĩnh lặng của thân xác. Với sự im lặng của ngôn từ, người hành thiền sẽ tiếp xúc được với luồng khí lực trung bình [của sự bấn loạn]. Với một tâm thức trong sáng và tỏa rộng, người hành thiền sẽ khám phá được luồng khí lực thật tinh tế của sự bấn loạn (khí lực của thân xác mang tính cách “thô thiển”, khí lực của ngôn từ mang tính cách “trung bình”, và khí lực của tâm thức/tư duy mang tính cách thật “tinh tế”. Y khoa, Tâm lý học và Phân tâm học Tây phương không nghĩ đến các khía cạnh này trong sự sống nói chung của con người và cả các loài sinh vật ở một cấp bậc tiến hóa nào đó).
Ở cấp bậc bình dị, tất cả chúng ta đều ra sức mang lại những sự đổi thay trong cuộc sống của mình. Thế nhưng thường thì đấy cũng chỉ là sản phẩm lập đi lập lại, tạo ra bởi nguyên nhân và điều kiện (chúng ta chỉ biết lập đi lập lại các hành động mang tính cách khái niệm quy ước và công thức, đưa đến những kết quả trói buộc tạo ra bởi quy luật nguyên nhân và hậu quả), và nhất là bởi các sự ba hoa trong nội tâm mình và những sự tin tưởng sai lầm của mình đối với hiện thực (không nhận thấy được bản chất lệ thuộc, vô thường và khổ đau của thế giới hiện tượng). Các thói quen ấy đã ăn sâu vào thân xác, xúc cảm và tâm thức mình. Các phép luyện tập tsa loung sẽ giúp mình không nuôi dưỡng các cấu trúc quá quen thuộc ấy, và chận đứng chúng qua các sự nối kết giữa mình với chúng (sự tĩnh lặng và không ba hoa trong tâm thức mình sẽ giúp hóa giải được các thói quen hành xử đó khi mình tiếp xúc với chúng). Các thói quen ấy đều mang một cấu trúc riêng dưới thể dạng của một luồng khí lực, và luồng khí lực ấy có thể nắm bắt được và tống khứ được. Khi nào tống khứ được nó thì chúng ta sẽ có thể mở ra cho mình một bầu không gian tỏa rộng, và một sự chú tâm ngày càng trở nên sắc bén hơn.
***
Phụ lục 2
Chín phép hít thở mang lại sự tinh khiết hóa
Tenzin Wangyal Rinpoché
(trích trong quyển : Sự Giác Ngộ của thân xác thiêng liêng,
L’Éveil du corps sacré, Éditions Claire Lumière, 2012)
Tư thế tọa thiền căn cứ vào năm điểm
1- Ngồi lên một tọa cụ (một chiếc gối) đặt trên mặt đất (trên chiếu hay một tấm thảm), hai chân bắt chéo vào nhau.
2- Cột xương sống thẳng đứng, không xiêu vẹo.
3- Lòng ngực mở rộng, hai khuỷu tay hơi dạng ra.
4- Hai bàn tay đặt vào ngang tầm với một vị trí cách khoảng bốn chiều ngang của một ngón tay bên dưới rốn, trong tư thế cân bằng. Đầu hai ngón cái chạm vào bên dưới các đốt của hai ngón áp út. Đặt các ngón của tay trái lên trên các ngón của tay phải, lòng bàn tay ngửa lên phía trên (xin lưu ý hình 2 chỉ là một sơ đồ cho thấy hệ thống kinh mạch bên trong cơ thể, không hoàn toàn đúng với tư thế tọa thiền mô tả trên đây).