ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits: 1,686,127,234
Stories: 8,385,135
Profile image
0
0
Tác giả: khatkhaoxanh
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước: 1
24h trước: 1
Tổng số: 325
Đầu xuân đọc lại Văn Công Hùng
Saturday, January 16, 2016 17:54
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Cũng như rừng, Kơ nia đang dần mất dạng trong những chiều Tây Nguyên thông thốc gió. Những kẻ giang hồ muốn ngồi hướng mắt về chân trời nào đó mà nhớ một thuở chưa xa, mắt không thể nào vượt qua vài chục mét.Người Tây Nguyên giờ cũng không còn hạt Kơ nia bỏ trong gùi làm lương thực nữa. Họ có mì tôm, có cơm bỏ trong bì nilon, có nước đựng trong các chai nhựa, vẫn là nước suối, nhưng là những con suối chết, bởi nó phơi mình ra dưới nắng dưới bụi chứ không uốn lượn trong rừng, dưới những tán lá xanh mướt khiến nước cũng ngất ngây trong uống đến đâu biết đến đấy.

Cũng phơi ra dưới nắng là những làng Tây Nguyên bây giờ. Những mái nhà lợp tôn đỏ bầm như màu trời ngày sau bão. Những thói quen, những nếp ứng xử cũng đã khác xưa. Không hiểu tốt hay xấu hơn, nhưng rõ ràng, nó lạnh lẽo hơn dẫu là ngồi trong nhà mái tôn giữa trưa hực nắng. Nó cũng cô đơn hơn dẫu bây giờ rất nhiều các mối quan hệ chằng chéo níu giữ. Ngày xưa sau gia đình là đến cộng làng với già làng. Và chỉ thế. Giờ còn bao nhiêu cơ quan đoàn thể, bao nhiêu sự chi phối, bao nhiêu cánh cửa mở ra mà sao con người vẫn thấy cô đơn, trần trụi. Cũng là đi bộ, người Tây Nguyên chuyên đi bộ theo hàng một, dẫu là hàng trăm người đi. Nhưng là đi trong rừng, bất trắc đấy- đi hàng một để tránh bất trắc- nhưng vẫn thấy yên ổn ấm áp, bởi rừng, dẫu bất trắc khôn lường, nhưng luôn thân thiện và sẻ chia cùng con người. Giờ, đường ô tô tận làng, người dân vẫn đi bộ, vẫn hàng một, mà sao cứ thấy lầm lụi,  cứ thấy vênh lên trong cái màu đỏ đến nhức mắt của đất đỏ, của màu trời và cả trong màu cà phê chín…

Hôm nọ ở một cái festival rất lớn mang tầm quốc tế về cồng chiêng, người ta định bảo bà con diễn một cuộc ăn trâu phục vụ festival, chuẩn bị xong hết thì lại bảo bà con không làm nữa vì có vị lãnh đạo bảo nó dã man quá. Nhiều người không biết rằng, cái cuộc ăn trâu ấy sau này dân làng vẫn phải tự làm ở làng mình, vì đơn giản, nếu không làm tức là lừa dối thần linh.

Tôi không ủng hộ sự dã man, nhất là khi nó lại phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật, trước hàng ngàn người như lâu nay chúng ta thấy ở các “lễ hội đâm trâu” do nhà nước tổ chức. Té ra đâm trâu nó khác, đơn giản và tình nghĩa hơn nhiều…Trước hết nhân đây phải khẳng định thêm một lần nữa, rằng là không có cái gọi là “lễ hội đâm trâu” như lâu nay chúng ta hay gọi. Nó chỉ là một thành tố của một lễ hội, và người Tây Nguyên gọi nôm na là ăn trâu. Họ làm con trâu ấy để cúng thần linh, mời thần linh ăn, để họ tạ ơn thần linh đã giúp cho họ những việc lớn của làng. Những lễ hội mà có ăn trâu rất hiếm và không thường xuyên tổ chức. Để có cái cuộc ăn trâu vào sáng sớm hôm sau ấy, đêm trước đã có một cái lễ khóc trâu. Những người đàn bà thân thuộc với con trâu được chọn để ngày mai làm lễ ấy, tối hôm trước ra chỗ cột trâu và… khóc trâu. Họ khóc rất bài bản, cám ơn con trâu và cũng “giao nhiệm vụ” cho trâu ngày mai thay mặt họ đi gặp thần linh. Họ cho con trâu ăn những ngọn cỏ non nhất mới cắt lúc chiều, mời trâu uống thứ rượu cần chắt từ lần cắm cần đầu tiên…Rồi lúc tổ chức “tiễn trâu về với Yang”, theo nhiều người Tây Nguyên kể, không có nhiều người xem như hiện nay, đặc biệt là trẻ con càng không. Toàn các cụ già. Họ tiến hành nghi lễ thiêng liêng với thần linh, con trâu ấy chính là hiện thân của dân làng “tiếp kiến” thần linh.

Chứ không như hiện nay, người ta phong cho nó thành “lễ hội đâm trâu” rồi xách ông trâu ra cột giữa cái sân đông đặc người, rồi nhảy múa hú hét xung quanh cho con trâu ba hồn chín vía bay tiệt lên trời rồi bất thình lình đâm một nhát, máu me nhoè nhoẹt.

Vấn đề là, ai, và từ lúc nào, đã làm cho ý nghĩa những sinh hoạt văn hóa, và ý nghĩa tâm linh của những sinh hoạt ấy bị biến tướng đi một cách dữ dội thế…?

Nguyễn Cường là một nhạc sĩ rất nổi tiếng viết về Tây Nguyên. Nhưng Tây Nguyên nhất quyết không phải như những gì Nguyễn Cường đã viết. Anh đã tạo ra một lớp công chúng của mình bằng cách phả rock vào những ca khúc anh viết về Tây Nguyên, tạo ra một Tây Nguyên máu lửa, hừng hực, man dại và… nông cạn. Trong khi thật sự, Tây Nguyên lại rất trữ tình, sâu sắc và… mềm yếu mong manh nữa. Thì hãy nghe Y Phôn Ksor chẳng hạn, chàng nhạc sĩ kiêm ca sĩ người Ê Đê này có mấy bài hát để đời như “Đi tìm lời ru mặt trời”, “Đôi chân trần”… mà xem, ta hoàn toàn không thấy hú hét, không lắc mông lắc ngực, không nhảy tưng tưng, mà nó thủ thỉ tâm tình, nó xa xót đắng đót, nó thâm trầm đến thắc thỏm u uẩn, khiến người nghe như mỏng đi, như dẹt ra trong cái thổn thức nao lòng của giai điệu.

Làng Xốp Nghét của cụ Mết trong tác phẩm Rừng xà nu nổi tiếng của nhà văn Nguyên Ngọc hôm nay: Nhà trệt, lợp ngói, nền đất lầm bụi…

Tôi đã có nhiều đêm thức để nghe các già làng, các nghệ nhân cao tuổi kể khan (hri, hamon), chưa bao giờ thấy hú hét, chưa bao giờ thấy giậm giật. Chỉ là những thủ thỉ tâm tình, những câu chuyện ăn vào đêm, xuyên vào đêm, rỉ rả như đêm để rồi mỗi sáng mai lại bừng ngộ rằng, cái thế giới mà tôi vừa lẫn vào nó tối qua, té ra nó lại đang hiển hiện ngay trước mắt tôi kia, nhưng nó lại cũng vô cùng lạ lẫm, bởi tôi vừa được chứng kiến sự thoát thân kỳ lạ của nghệ nhân. Cái ông cởi trần mặc khố thu lu đầu gối quá tai nhăn nheo ngồi trước tôi bây giờ và cái ông mới đêm qua nằm kể khan vừa là 1 mà lại là 2, vừa trần trụi lại vừa lộng lẫy, vừa hiện thực cũ mèm đây lại cũng rất tinh khôi ngời sáng khi dám đi bắt nữ thần mặt trời, dám “đằng vân quá hải” chỉ để thỏa mãn khát vọng tự do của mình…

Tôi cũng từng có một cuộc ngồi rất thú vị với mấy “quý ông” Tây Nguyên nổi tiếng một thời ở nhà ca sĩ Y Zăc. Những là Y Phôn Ksor, Y Moan, Kran Dich, KPlin, Y Zắc… ngồi suốt một đêm, ngồi nghe họ hát mộc dân ca Tây Nguyên với Ghi ta, uống rượu cần trong một ngôi nhà ngoại ô thành phố Buôn Ma Thuột. Rồi nghe họ nói chuyện về Tây Nguyên, thì mới biết té ra, lâu nay những cái mình biết về Tây Nguyên chỉ là lớp váng, chỉ là thứ phù du bụi bặm nổi lên trên, sâu lắng phía dưới, lặn dưới đáy là cả một trầm tích đậm đặc vừa ma mị vừa minh triết với những hiển nhiên nhưng không thể cắt nghĩa được. Chao ơi, cái khó, cái làm ta ma mị chính là ở những điều hiển nhiên không thể cắt nghĩa được ấy. Ai mà cắt nghĩa được rằng, tại sao tự mình không làm ra chiêng, nhưng người Tây Nguyên đã biến chiêng thành một thứ tài sản đương nhiên của mình không cần bảo chứng vậy. Ban đầu người Tây Nguyên làm chiêng bằng… tre nứa, sau đấy họ mon  men xuống đồng bằng nước Việt, hoặc thông qua thương lái đưa lên, rồi sang cả Lào, đổi trâu, voi… lấy chiêng. Vì thế tên chiêng bây giờ vẫn có chiêng Yoăn (Kinh), chiêng Lao (Lào). Nhưng chiêng chỉ thành chiêng khi nó được chính những nghệ nhân tài hoa Tây Nguyên ra tay chỉnh, bây giờ hay gọi là lên dây chiêng. Cuộc hồi sinh vĩ đại của chiêng chính là từ sự chỉnh chiêng của người Tây Nguyên này. Phải qua công đoạn này thì chiêng mới thành… chiêng. Rồi còn tự tạo ra không gian chiêng nữa…

Cái sự mà UNESCO công nhận không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại không hẳn là vì chiêng Tây Nguyên vĩ đại, được tôn vinh, mà ý nghĩa chính là món này nó đang chuẩn bị tiệt chủng, cần bảo vệ khẩn cấp. Bao nhiêu năm qua, từ cái thời đề cương văn hóa của ông Trường Chinh, chúng ta đã đề cao dân tộc tính, chỉ rõ phải bảo tồn ra sao, bản sắc ra sao… thế mà rồi, cụ thể ra, cái bản sắc thật sự của Tây Nguyên là gì đã mấy ai hiểu hết. Cồng chiêng đấy, suốt ngày kêu gọi bảo tồn rồi nâng niu gìn giữ, cuối cùng thì phải bảo vệ khẩn cấp. Lý do người Tây Nguyên quý chiêng như thế là vì chiêng không chỉ là vật chất thông thường đổi bằng trâu bằng voi, mà nó chính là đời sống tâm linh, trong chiêng có Yang, thế mà bây giờ người ta dửng dưng đến thế?

Prev1234NextView as Single Page
Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story
If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.