Lại nói đất kinh kỳ Thăng Long, nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng về sau, chia quân làm hai thứ binh là ưu binh và nhất binh. Ưu binh thì kén quân Thanh Nghệ làm quân túc vệ đóng ở kinh thành canh giữ những nơi trọng yếu cung vua phủ chúa, được cấp công điền và có chức sắc. Nhất binh là lính tứ trấn ở Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây chỉ để đủ giữ các trấn và hầu hạ các quan còn thì cho về làm ruộng, khi cần dùng thì mới gọi. Những lính ưu binh từ các đời trước dù có kẻ ngang ngược công thần nhưng nhà chúa cũng chỉ trị tội tên cầm đầu mà vẫn giữ chế độ ưu binh, nên về sau ưu binh đã quen thói gặp điều trái ý là nổi lên làm loạn. Nay Trịnh Khải nhờ quân tam phủ Thanh Nghệ mà đoạt được ngôi chúa Đoan Nam Vương, trừ được vây cánh của Trịnh Cán nên ban ân quan tước cho kẻ đứng đầu kiêu binh là Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho kiêu binh. Đó chính là mầm loạn khó kiềm chế.
Năm Giáp Thìn (1784). Nguyễn Du mười chín tuổi. Tháng 2 , nhân vụ 7 kiêu binh bị nhà chúa giết vì bữa tiệc vua Lê đãi kiêu binh có công phò Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ từ trong tù ra, kiêu binh đã nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá. Nguyễn Khản trốn lên với em là Nguyễn Điều đang làm trấn thủ Sơn Tây và Nguyễn Nể làm Hiệp tán Nhung vụ. Họ toan hợp quân các trấn về đánh kiêu binh, nhưng khi sự lộ ra quân kiêu binh vào canh chặt phủ chúa, Trịnh Khải không ra được nên mưu bất thành. Kiêu binh chia nhau giữ các cửa ô. Quân các trấn sợ chúa bị hại nên đành kéo về. Kiêu binh áp lực bãi chức Nguyễn Khản và giáng chức Nguyễn Điều, hai người về Hà Tỉnh.
Lại nói Hoàng tôn Lê Duy Kỳ (tức vua Lê Mẫn Đế, Lê Chiêu Thống sau này) là con trưởng của Lê Duy Vĩ, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông . Ba anh em hoàng tự tôn được kiêu binh giải cứu sau 15 năm lao tù. có mối hận sâu sắc với chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767-1782). Hoàng Lê Nhất thống chí của Ngô Thời Chí kể rằng: Nguyên Trịnh Doanh có con gái lớn là quận chúa Tiên Dung , quận chúa là con vợ cả, được Trịnh Doanh yêu lắm. Thế tử Trịnh Sâm là con vợ thứ. Vợ cả Doanh muốn con được làm hoàng hậu nên xin với Doanh để gả cho thế tử Lê Duy Vĩ. Vì quá yêu con, vợ Doanh thường phân biệt lễ vua tôi quá rõ rệt, những bữa mời thái tử ăn cơm, Sâm không được vợ cả Trịnh Doanh cho cùng ngồi với thái tử. Trịnh Sâm nói với Lê Duy Vĩ: “Trong hai ta phải có kẻ mất người còn. Vua ấy không thể cùng thời với chúa này”. Thái tử Lê Duy Vĩ vẫn có ý đề phòng, thường giao kết với hào kiệt và dân sĩ trong thiên hạ, mong ngày giành lại thực quyền. Do Trịnh Doanh mất sớm. Trịnh Sâm được lên thay quyền. Việc đầu tiên của Sâm là sai một viên quan thị vu cho thái tử thông gian với cung nhân của Trịnh Doanh (Lập lại mưu cũ của Trịnh Giang giết vua trước đây: vu cho Lê Đế Duy Phương tư thông với vợ Trịnh Cương, buộc phế bỏ, giáng xuống làm Hôn Đức quân, rồi bị giết chết). Nay thái tử Lê Duy Vĩ cũng bị kết tội trạng giống hệt vậy. Thái tử và ba con bị tống giam vào ngục. Sau đó, thái tử lại bị vu tội định bỏ trốn để tạo phản nên bức uống thuốc độc chết năm 1771. Ba anh em hoàng tự tôn bị giam vào ngục 15 năm sau mới được kiêu binh giải cứu. Nhà chúa giết bảy kiêu binh giải cứu hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ khi vua Lê đang thiết họ ăn uống đã châm ngòi cho loạn Kiêu binh phá nát Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu và áp lực bãi chức Nguyễn Khản, bởi ông là thầy Trịnh Khải, lại làm quan Tham tụng, thượng thư bộ Lại.
Lại nói Nguyễn Ánh ở Phú Quốc hết sạch lương thực phải hái rau và tìm củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, bèn cho người tìm người quen cũ là cố đạo Bá Đa Lộc lúc đó đang ở Thái Lan để hỏi kế. Bá Đa Lộc khuyên là nên cầu nước Pháp nhưng phải cho thế tử Cảnh cùng đi để làm tin. Nguyễn Ánh theo lời ấy, bèn giao Hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc mang quốc thư sang Pháp. Tờ thư ấy có 14 khoản đại ý xin nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn, đủ cả mọi thứ. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An, đảo Côn Lôn và để riêng cho nước Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở nước Nam. Nguyễn Ánh lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp (lúc trước bị thua ở Sài Gòn đã theo đường núi chạy sang Thái Lan xin cầu viện) nên mới đến hội với tướng Thái Lan tại Hà Tiên và sau đó sang Bangkok. Vua Xiêm Chakri (Rama1) tiếp đãi Nguyễn Ánh rất hậu và sai hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng các tướng Lục Côn, Sa Uyên và Chiêu Thùy Biện là một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai vạn quân (tài liệu khác nói là ba vạn, có tài liệu nói là năm vạn kể cả quân bộ của Chân Lạp và hương binh mới mộ của Nguyễn Ánh ) với 300 chiến thuyền sang giúp. Nguyễn Ánh phong Châu Văn Tiếp là Bình Tây đại đô đốc được toàn quyền điều khiển việc quân. Ngày 9 tháng 6 xuất quân, trước chiếm Kiên Giang sau theo hai đường thủy bộ tiến sang lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc. Khi đánh đến Mân Thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng và mất. Nguyễn Ánh cử Lê Văn Quân thay chức thống lĩnh đại quân, Nguyễn Văn Thành đem 8.000 quân theo quân Xiêm đi đánh trận. Các tướng Mạc Tử Sinh (con Mạc Thiên Tứ), Nguyễn Thừa Diễn đi trấn thủ và mộ binh ở các vùng vừa chiếm được. Quân Xiêm tiến đến đâu cũng làm nhiều điều hung ác, dân rất oán giận. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa sai người cấp báo về Quy Nhơn. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Năm Ất Tỵ (1785). Nguyễn Du hai mươi tuổi. Nguyễn Huệ vào đến Gia Định, nhữ quân Xiêm vào trận địa mai phục ở rạch Gầm, Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho. Nguyễn Huệ bố trí pháo binh ở hai bên bờ và các cù lao trên sông, phục sẵn chiến thuyền ở các con lạch và cù lao Thới Sơn, sau đó phái một số thuyền tới khiêu khích quân Xiêm dụ vào nơi đã giăng bẫy, đánh một trận vào ngày 19 tháng 1 năm 1785, giết quân Xiêm chỉ còn vài nghìn, theo đường bộ chạy được về nước. Nguyễn Huệ phá được quân Xiêm và đem binh truy đuổi Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn hết cả lương thực chỉ còn khoảng 200 quân tướng và 5 chiếc thuyền chạy dạt sang đảo Cổ Cốt, rồi sang Xiêm. Nguyễn Ánh nói với vua Xiêm: Quý quốc vương nghĩ tình lân bang giao hảo cho quân sang giúp nhưng vì tướng tá kiêu ngạo, quân lính tham bạo nên mới đến nổi thất bại như thế. Vua Xiêm Chakri I gọi Chiêu Tăng, Chiêu Sương là “ngu hèn, kiêu căng, hung hãn đến nỗi bại trận làm bại binh, nhục quốc”. Người Xiêm từ sau cuộc bại trận năm 1785, miệng tuy nói khoác mà lòng thì sợ Tây Sơn như cọp. Nguyễn Ánh sau đó xin vua Xiêm cho ra ở Đồng Khoai, ngoại thành Vọng Các (Bangkok ngày nay) khẩn hoang, làm ruộng, đốn củi… để nuôi nhau và bí mật cho người về do thám ở Long Xuyên.
Nguyễn Huệ, sau khi đánh dẹp xong, liền đem đại quân về Quy Nhơn, cử Đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định. Dương Công Trừng đánh úp quân Tây Sơn ở Long Xuyên bị Thái bảo Tham dẫn quân từ Gia Định xuống đánh, bắt sống và giết chết. Quân Miến Điện sang đánh Xiêm, vua Xiêm đích thâm cầm quân đi đánh. Nguyễn Ánh tự mình cầm quân đi trợ chiến, bắt sống được hơn 500 tù binh cùng nhiều khí giới. Ít lâu sau Xiêm bị quân Chà Và sang xâm chiếm, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân trợ chiến cùng em vua Xiêm đi đánh trận. Quân Chà Và bị thua phải rút về. Nguyễn Ánh đóng chiến thuyền và dò la tình hình nhà Tây Sơn để mưu tính trở về.