ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits: 1,688,476,302
Stories: 8,393,072
Profile image
0
0
Tác giả: khatkhaoxanh
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước: 1
24h trước: 1
Tổng số: 34
Ngọc cho đời
Saturday, March 26, 2016 20:54
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.

Có mười bốn người: ba người con anh Khải: Khoa, Thúy, Hoàn cùng hai con dâu, một con rể với mấy cháu nội, ngoại; năm người đứng tuổi là họ hàng ruột thịt và tôi, ngồi nhìn nhau, lặng lẽ. Tôi chỉ hỏi Khoa một câu về trình tự lễ nhập quan rồi hỏi thêm: Mẹ cháu đâu? “Dạ, mẹ cháu bị bệnh nặng và rất dễ xúc động, không thể ra đây được chú ạ”! Tôi se sắt lòng! Cả cuộc đời người vợ ấy thương chồng, thương con, hy sinh cho chồng cho con, nay anh ra đi trước, để lại chị bệnh tật đến nỗi không thể đến đây vĩnh biệt chồng… Tám giờ ba mươi phút, Nhà sư đến đọc kinh. Tám giờ năm mươi phút, Nhà đòn khâm liệm anh Khải, rồi đúng chín giờ, Lễ nhập quan cử hành. Người ta đổ mấy bao trà lót đáy quan tài rồi đặt thi hài nhà văn lên trên. Nắp áo quan có chừa một mảng bằng mêca trong suốt để gương mặt anh tiếp tục quan sát cuộc đời này thêm hai ngày hai đêm nữa. Có tiếng khóc của Thúy con gái anh, cùng những tiếng nấc nghẹn ngào như cố nuốt lệ vào trong của những người khác. Tôi nhận một nén nhang đã thắp sẵn từ tay Khoa, lặng lẽ vái anh và khấn thầm trước linh cữu. Chín giờ mười lăm phút, tôi cùng mọi người khênh quan tài ra xe tang. Tôi chạy xe gắn máy theo xe chở linh cữu về Nhà Tang lễ thành phố ở 25 Lê Quý Đôn, quận 3. Mười giờ, xe đến nhà Tang lễ. Anh nằm ở đó hai ngày 16 & 17. Sáu giờ sáng ngày 18-1-2008, Lễ truy điệu diễn ra trọng thể, linh cữu anh được đưa về an táng tại nghĩa trang thành phố ở Thủ Đức. Phải mất gần hết buổi sáng ngày 16-1 với rất nhiều cú điện thoại, giao dịch với nhiều cấp, nhiều người… Ban Lễ tang mới có phép để anh an nghỉ tại Thủ Đức, vì nơi đây hết đất, nghĩa trang đã dời lên Củ Chi rồi! Thế là hết! Bao nhiêu buồn vui sướng khổ, bao nhiêu vinh quang và cay đắng, bao nhiêu dằn vặt và hối tiếc, bao nhiêu tiếng cười và nỗi đau… từ nay tiêu tan trở về với cát bụi, thế là hết! Anh Khải không còn sống trong cõi nhân gian bé tý này nữa! Tất cả đã khép lại, như đôi mắt thông minh nhạy cảm của anh, vĩnh viễn! Thế nhưng, tôi tin có một thứ không bao giờ mất đi, nó còn mãi với thời gian, với lòng người yêu văn chương ở đất nước này, đó là hàng chục tác phẩm gồm truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch của Nguyễn Khải.

Với văn tài của Nguyễn Khải, người ta nói nhiều đến Gặp gỡ cuối năm, Thượng đế thì cười… Riêng tôi, tôi cũng thích những tác phẩm ấy, nhưng cái tôi thích nhất lại là những tác phẩm anh Khải viết trực tiếp về đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Phật, nghĩa là đề tài tôn giáo, cụ thể là hai cuốn: Xung đột (1959-1961), và Điều tra về một cái chết (1985). Tôi đọc Xung đột từ khi mười hai tuổi, và, tôi bị tác phẩm ấy hớp hồn!

Năm 1963, trong hàng chục cuốn truyện bố mua về cho tôi đầu kỳ nghỉ hè có hai tập Xung đột của Nguyễn Khải do NXB Văn học ấn hành. Tập 1 ra trước tập 2 đúng hai năm, sách mỏng, chỉ có 152 trang 13 x 19; Tập 2 ra năm 1961, 212 trang). Tôi say sưa đọc liền một mạch từ sáng sớm đến khuya hết 364 trang sách. Tác phẩm viết về những người theo đạo Thiên Chúa. Phần lớn họ là những con người lương thiện, hiền hậu, chăm làm, giàu lòng nhân ái, giàu đức tin và… rất dễ bị các thế lực hắc ám lung lạc! Có lẽ chính vì Xung đột viết về nhà thờ mà ấn tượng tác phẩm này để lại trong cái đầu non nớt của một cậu học trò mới mười hai tuổi rất mạnh mẽ, sâu sắc. Trong cái làng Hỗ công giáo toàn tòng ấy, sao mà có những kẻ ác như thế! Họ ác thế mà tại sao những người dân lương thiện trong đó có không ít cán bộ như chị Nhàn, phó Chủ tịch xã cũng có lúc bị mê hoặc, nghe theo?

Quê tôi là xã An Đức, huyện Ninh Giang, Hải Dương, có ba làng và một trại. Ba làng rặt người bên lương. Trại -làng mới lập ven sông của làng Mũa nên gọi là Trại Mũa, cách làng tôi gần cây số- lại toàn những gia đình bên giáo… Gia đình tôi bên lương. Từ bé tý, không hiểu sao tôi rất tò mò, thích nhìn ngắm tháp chuông, giáo đường, thích nghe tiếng chuông nhà thờ Trại Mũa, thích chơi với trẻ con ở đó. Giáo đường Trại Mũa không lớn, xây ở phía trong đê, ven sông Lê – một nhánh của sông Luộc, đổ vào sông Thái Bình – cho nên từ xa đã hiện ra uy nghi đầy sức lôi cuốn. Lớn lên một chút, mỗi lần theo mẹ qua đò sông Lê để sang chợ Bùi, tôi cứ dán mắt vào nóc nhà thờ Bùi Hòa – một công trình kiến trúc rất đẹp ở bên sông, lớn hơn nhà thờ Trại Mũa rất nhiều- mà ngắm nghía, mà tưởng tượng. Tôi nhìn những người ra vào nhà thờ hành lễ hàng ngày ăn mặc rất đẹp như đi trẩy hội mùa xuân, như nhìn vào một thế giới khác, đầy hấp dẫn! Dân quê tôi nghèo, quanh năm lam lũ, ít khi mặc quần áo đẹp như dân bên giáo. Tôi từng xem rất nhiều lễ cưới ở nhà thờ, thuộc làu bài kinh do cha cố đọc với rất nhiều câu hay ý đẹp, là khát vọng của con người. Tôi thường tha thẩn ở các nhà thờ, chạy nhẩy chán thì múc nước mưa ở bể nước mà uống căng phình bụng mới thôi. Sau này, trong những năm Hoa Kỳ ném bom miền Bắc, tôi còn được bố, chú và cô cho đi thăm nhiều nhà thờ: Lớn nhất vùng là nhà thờ Sặt đẹp mê hồn ở thị trấn Kẻ Sặt, kế đến là nhà thờ Ba Đông thuộc huyện Gia Lộc, và tất nhiên có nhà thờ lớn ở trung tâm thị xã Hải Dương. Khi bom Mỹ san phẳng ga xe lửa Hải Dương thì bom rơi trúng nhà thờ lớn, sụp đổ tan tành. Tôi nhìn cảnh tượng tan hoang và bật khóc! Sau này, khi đã in dấu chân khắp Bắc Trung Nam, cũng như trong các chuyến đi công tác ở nước ngoài, tới đâu có nhà thờ là tôi ghé thăm, chụp thật nhiều ảnh. Tôi có một bộ sưu tập cá nhân ảnh của các nhà thờ ở châu Úc, châu Mỹ, châu Âu.. Có lẽ vì khoái nhà thờ nên khi đọc Xung đột, tôi mê say vì tác giả đã miêu tả tường tận về cuộc sống và số phận của những người bên giáo. Tôi đọc say sưa, chỗ nào không hiểu thì hỏi bố, hỏi bác tôi. Hồi ấy mà đã hơn một lần tôi tự nói thầm: sau này lớn lên, nhất quyết mình sẽ viết tiểu thuyết như ông Khải! Khi vào đại học, tôi đọc lại Xung đột cùng tất cả tác phẩm khác của Nguyễn Khải, và cảm nhận được nhiều điều mà thời kỳ mười hai mười ba tuổi mình chưa nghĩ được. Văn chương Nguyễn Khải sắc xảo, giàu chất chính luận kiểu Lỗ Tấn; khi cần thì chỉ vài dòng khắc họa tính cách nhân vật, vài dòng miêu tả bối cảnh sự kiện cũng đủ lột tả sự quyết liệt như chính mối xung đột trong làng Hỗ những năm sau cải cách ruộng đất, bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đó là giai đoạn nhiều niềm vui mới và không ít bi kịch. “Mọi trật tự cũ bị tháo tung ra, và một trật tự mới đang được tổ chức lại. Những thói quen cũ bị sụp đổ, và những thói quen mới đang hình thành. Phá hủy và dựng xây, chấm dứt và mở đầu…”. Có người bảo tiểu thuyết anh Khải nặng về ký sự, thậm chí họ còn cho là đầy chất báo chí. Tôi không nghĩ vậy. Chất chính luận sắc nhọn, tiết tấu nhanh là lối viết hiện đại của các tiểu thuyết gia đương thời trên thế giới. Mà dù cho là tân văn đi nữa thì ở nước mình, dễ dầu gì có nhiều người viết được như Nguyễn Khải. Nếu tôi nhớ không lầm thì đến năm 1957, Xung đột là tiểu thuyết duy nhất, đầu tiên, viết về đời sống dân sự ở miền Bắc sau chiến tranh, được in từng kỳ trên báo suốt hơn một năm. Năm 1959 tập I in thành sách. Mãi đến năm 1962, Vỡ Bờ tập I của nhà văn Nguyễn Đình Thi mới xuất bản, lại cũng viết về kháng chiến (tập II Vỡ bờ ra năm 1970). Nhấn mạnh điều này để thấy Nguyễn Khải là một trong những người tiên phong viết tiểu thuyết về cuộc sống dân sự đầy vật lộn cam go sau chiến tranh. Tôi nghĩ chính anh, nhà văn Nguyễn Khải đã khai sinh dòng tiểu thuyết viết về những chuyện thường ngày, bám sát các sự kiện nóng hổi, đầy chất trí tuệ, chính luận của văn học Việt Nam.

Prev34567NextView as Single Page
Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story
If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.