ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits: 1,689,016,548
Stories: 8,394,854
Profile image
0
0
Tác giả: hoangkimvietnam
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước: 1
24h trước: 1
Tổng số: 9
Tư liệu chọn lọc về Nguyễn Du
Tuesday, November 25, 2014 8:27
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.

Nguyễn Khuyến xem thời mình sống là một thời “mạt học”: “Mạt học văn chương nhập hạ tằng” (Văn chương trong buổi học vấn suy tàn, đã rơi xuống bậc dưới). Rơi xuống bậc dưới là bậc gì? Nó chỉ trên bậc ăn mày một chút: “Hạnh nhân nho đẳng vi tiên cái” (Cũng may nhà nho còn được xếp trên hạng ăn mày). Thì cũng chẳng có gì lạ. Ngày xưa, ngay một nhà thơ lớn như Đào Tiềm cũng từng có lúc làm thơ xin ăn cơ mà: “Cổ nhân khất thực dĩ thành thi” Người xưa từng đã có thơ “xin ăn”). Biết thế, nhưng Nguyễn Khuyến không thể không trằn trọc tự hỏi: “Sách vở ích gì cho buổi ấy?” và có lúc ứa nước mắt: “Bút nghiễn trầm tư ưng hữu lệ” (Ngẫm nghĩ đến bút nghiên đáng tràn nước mắt).

Bây giờ chúng ta quen nhìn Nguyễn Khuyến như một trong những nhà thơ cổ điển lớn nhất của Việt Nam. Nhưng thuở sinh thời, không chắc Nguyễn Khuyến đã có được mấy tri kỷ. Không đăng trên báo và cũng không in thành sách, thơ ông chủ yếu được truyền tụng trong bạn bè và một số người quen. Nhiều lần, ông nói là ông không cần có nhiều người đọc: “Tạp cú bất tu nhân cộng hưởng” (Câu thơ vặt không cần mọi người thưởng thức) hoặc “Phóng ngâm hà tất vạn nhân truyền” (Thơ ngâm tràn, cần gì phải vạn người truyền tụng). Nhưng có nhắc đến là có ảm ảnh. Mà ám ảnh ấy chắc chắn là buồn.

Một điểm đáng chú ý là khi nhắc đến thơ, ít khi Nguyễn Khuyến nhắc đến đơn vị bài. Mà chỉ dừng lại ở đơn vị câu.

Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu
Khi buồn ngâm láo một câu thơ.

(Đại lão)

Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén
Bút mới xô tay thử một hàng.

(Khai bút)

Câu thơ nghĩ, đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

(Khóc Dương Khuê)

Ngoài những câu quen thuộc ở trên, Nguyễn Khuyến còn có câu thơ này tôi rất thích và cứ đọc đi đọc lại hoài trong đêm giao thừa vừa qua:

Trầm ngâm tọa đối hàn đăng chước
Nhất cú liên niên, hứng vị cùng.

(Ngồi lặng lẽ dưới bóng đèn, rót rượu uống
Ngâm một câu thơ kéo dài hai năm liền, hứng vẫn chưa cạn).

Ngâm thơ, ở ngay thời điểm giao thừa, từ phút trước sang phút sau đã là hai năm. Hình ảnh thật đẹp.

Một điểm nữa cũng cần lưu ý: Trước hình ảnh “ông đồ” trong thơ của Vũ Đình Liên, Nguyễn Khuyến đã từng là người viết thuê câu đối để sống trong những ngày tết. Chắc chắn là ông viết rất nhiều. Bây giờ chỉ còn lại vài chục câu. Câu nào cũng hay. Với chúng, Nguyễn Khuyến được giới phê bình và nghiên cứu xem là người viết câu đối nhiều, mẫn tiệp, và thú vị nhất trong lịch sử văn học cổ điển Việt Nam, một lịch sử, ở đó, hầu như bất cứ người đi học nào cũng phải viết câu đối.

Trong bài thơ “Đối trướng phát khách” (Bán hàng đối trướng), Nguyễn Khuyến kể về việc bán câu đối của mình như sau:

Sinh thục văn tự cách
Tân xuân hựu phát khách.
Nhất nguyên chí thập nguyên
Đa thiểu giá bình địch
Hữu khách lai mãi chi
Chỉ dĩ can lang bách
Ngã văn tuy bất giai
Khởi bất xứng tam mạch
Khách mãi giá hà liêm
Bất xứng ngã bất dịch
Trì lang khách thả quy
Bất thụ ngã bất thích
Khách khứ độc tư ta
Văn tự hà nhất ách.

(Một lối văn tự dở sống dở chín
Cứ đến năm mới lại đem ra bán.
Từ một đồng đến mười đồng,
Nhiều ít giá phải chăng.
Có một người khách đến mua,
Chỉ đưa có một trăm miếng cau khô.
Văn ta tuy chẳng hay
Há không đáng ba tiền?
Khách sao mua rẻ thế?
Không đáng giá thì ta không bán.
Thôi khách hãy mang cau về.
Không đắt hàng ta cũng không ngại!
Khách đi rồi ta than thở một mình:
“Văn tự mà cũng gặp khó khan đến thế!”)

Đọc bài thơ trên, không thể không nhớ đến Tản Đà (1888-1939). Là một nhà thơ nổi tiếng và tài hoa nhất của Việt Nam trong suốt mấy thập niên đầu của thế kỷ 20, kể từ sau cái chết của Tú Xương (1907) và Nguyễn Khuyến (1909) đến lúc phong trào Thơ Mới ra đời (1932), có lúc, do túng quẫn, Tản Đà phải sống bằng nghề bói toán. Lời quảng cáo đăng báo cũng là một bài thơ:

Còn như đặt quẻ
Nhiều năm (5 đồng) ít có ba (3 đồng)
Nhiều ít tuỳ ở khách
Hậu bạc kể chi mà.

Từ Nguyễn Khuyến đến Tản Đà, ngoài những thay đổi về văn hóa, bao gồm cả văn tự, khoa cử, ý thức hệ và cách sống, còn có hai thay đổi lớn khác ít được nhắc đến: xu hướng chuyên nghiệp hóa và thương mại hóa văn chương.

Khi nào có hứng sẽ bàn tiếp chuyện ấy.


Nguồn: VOA Tiếng Việt (theo blog TS. Nguyễn Hưng Quốc)

Khóc Tố Như.

Huy Việt

Các bạn trẻ giờ không thích truyện Kiều, rằng: “Truyện Kiều hay ở chỗ nào, Nguyễn Du giỏi ở chỗ nào, chẳng qua là tả một con đĩ tàu lại dựa vào cốt truyện có sẵn. Vậy mà mọi người hết lời ca ngợi lại còn tôn vinh danh nhân văn hóa thế giới nữa chứ. Danh nhân văn hóa của các nước có nhiều tác phẩm để đời về văn hóa nước họ và giới thiệu văn hóa nước họ ra thế giới”. Kể ra điều đó không phải không có lý, ngay như Nguyễn Công Trứ cũng đã viết:

“Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải.
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu.
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu.
Mà bướm chán ong chường cho đến thế.
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa.
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.
Bán mình trong bấy nhiêu năm.
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai”
.
(Vịnh Thúy Kiều).

Vậy thì nên đọc Truyện Kiều sao đây?

Nguyễn Du có nhiều tác phẩm thơ văn khác nhau. Thế nhưng nói đến Nguyễn Du danh nhân phải là Nguyễn Du của Truyện Kiều. Bởi Truyện Kiều là một tác phẩm gắn liền với dân tộc Việt Nam, như thịt với xương. Ít có tác phẩm nào mà theo thời gian vẫn được yêu chuộng như Truyện Kiều. Truyện Kiều là tác phẩm “kinh điển”, khẳng định sức mạnh ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Truyện Kiều đã là một bài ca tình yêu và là một cuốn sách Đời, hoà trong đời sống của toàn dân tộc. Ngoài nội dung phong phú và sâu sắc, Truyện Kiều còn là một tác phẩm chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Ở đó Nguyễn Du đã “mượn” ngôn ngữ bình dân “làm nền” cho ngôn ngữ bác học, lột tả “thượng tầng kiến trúc” xã hội. Học giả Phạm Quỳnh đã nói như chân lý: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, mà tiếng ta còn thì nước ta còn”. Tức là vận mệnh đất nước gắn liền với Truyện Kiều, là bảo vật, là linh hồn của cả dân tộc. Thậm chí trong dân gian còn dùng Truyện Kiều làm sách bói thì chứng tỏ như nó đã ăn sâu thành tập quán trong nhận thức của xã hội.
Kiều, một người con gái đẹp người “làn thu thủy nét xuân sơn”, đẹp nết “thông minh vốn sẵn tính trời, pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”; xuất thân trong gia đình “thường thường bậc trung” có Vương Quan “nối giòng nho gia”. Kiều “hứa hôn” với Kim Trọng, một chàng trai “vốn nhà trâm anh”,“văn chương nết đất thông minh tính trời. Thiên tư tài mạo tót vời, vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”.
Do sự “búa xua” của thời cuộc, Kiều phải “bán mình chuộc cha”.
Trong lầu xanh Kiều đã gặp Thúc Sinh “cũng nòi thư hương” và “trước còn trăng gió sau ra đá vàng”. Vợ Thúc “Vốn dòng họ Hoạn danh gia, con quan lại bộ, tên là Hoạn Thư”, “Ở ăn thì nết cũng hay, nói điều ràng buộc thì tay chẳng vừa” và cái gì đến cũng phải đến, Kiều bị hành hạ bởi “thói đánh ghen”, để rồi kinh hãi thốt lên “Đàn bà thế ấy thấy âu một người, Ấy mới gan, ấy mới tài, Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời”.
Thoát Hoạn Thư Kiều lại rơi vào chốn lầu xanh lần nữa, ở đây nàng đã gặp “khách biên đình” Từ Hải, văn võ toàn tài “Một tay xây dựng cơ đồ, bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành”“đống xương vô định đã cao bằng đầu”. Từ Hải đã nghe lời Kiều để “bó thân về với triều đình”, để rồi “chết đứng trời trồng”. Hết nạn binh đao, “hại một người, cứu muôn người”.
Cuối cùng, sau mười lăm năm lưu lạc, Kiều và Kim Trọng tái hợp.

Prev12345NextView as Single Page
Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story
If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.