Mạng bí ẩn Dark Net: miền Viễn Tây của Internet
Tuesday, December 29, 2015 1:21
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
, Dark Net đang phát triển mạnh mẽ. Theo một nghiên cứu hồi tháng 8 của các nhà nghiên cứu ở Đại học Carnegie Mellon, bọn tội phạm kiếm được khoảng 100 triệu Mỹ kim mỗi năm nhờ bán ma túy và các hàng lậu khác trên những trang mạng ẩn kín bằng cách dùng tiền ảo Bitcoin, loại tiền số hóa không cần thẻ tín dụng hay ngân hàng để xử lý giao dịch.
Các cơ quan liên bang không chỉ đang chống bọn xấu giỏi ẩn mình trên mạng, mà họ còn đang đương đầu với số lượng đông đảo thường dân đổ xô kiếm lợi ẩn danh trên mạng. Các nhà nghiên cứu ở Đại học Carnegie Mellon kết luận, “Do có nhu cầu rất cao về các sản phẩm được bán, chưa rõ là các vụ triệt phá có sẽ hiệu quả hay không.”

Ross Ulbricht (Ảnh: FreeRoss.org)
Ước tính Ross Ulbricht, sáng lập viên của mạng Silk Road, kiếm được khoảng 20.000 Mỹ kim mỗi ngày dù hoạt động trên máy ở các thư viện công cộng và tiệm cà phê, trong khi trang mạng này (bắt đầu hoạt động từ năm 2011) có doanh thu tổng cộng 1,2 tỉ Mỹ kim. Trích dẫn thông tin của các điều tra viên liên bang, tờ The New York Timescho biết trong gần 3 năm hoạt động của Silk Road, hơn 1,5 triệu giao dịch đã được thực hiện trên trang này, liên quan tới hơn 100.000 tài khoản người mua và gần 4.000 tài khoản người bán; vào lúc bị đóng, trang này niêm yết bán hơn 13.000 món ma túy. Khi bị bắt, Ross Ulbricht được cho là có tài sản khoảng 30 triệu Mỹ kim, nhưng không bằng tiền chính thức, mà toàn bằng tiền ảo Bitcoin.
Dù nhiều người nghĩ rằng phải cỡ hacker mới lướt mạng Dark Net được, chuyện mua bán hàng và dịch vụ phi pháp hóa ra dễ đến mức đáng ngạc nhiên. Nhấp chuột trên Tor là thấy nó giống như bất cứ trình duyệt nào – có thêm logo hình củ hành của nó – dù nó chạy chậm vì cách định tuyến phức tạp ở hậu trường. Thay vì có đuôi .com hay .org trong địa chỉ trang mạng, các trang mạng trên Dark Net có đuôi .onion và thường được gọi là các trang mạng onion (củ hành). Vì Google không dò tìm trên các trang mạng onion, ta cần dùng trang tìm kiếm thô sơ trên Dark Net và các danh mục như Hidden Wiki hay Onion Link.
Các trang mạng chợ đen trên Dark Net rất giống bất cứ trang bán lẻ nào, ngoại trừ có những loại hàng ví dụ như thuốc an thần benzo, chất thức thần psychedelic, và súng AK-47 xài rồi, thay vì nồi niêu hay đồ trang trí bãi cỏ. Trên Silk Road 3, một trang không có liên hệ với trang mạng Silk Road nguyên thủy, ta có thể tìm theo loại, hoặc kéo chuột xuống để thấy hình ảnh và mô tả của những món bán chạy nhất: 1 gam cocaine 90% nguyên chất, gói 10 viên methylphenidate XL 18 mg (Concerta/Ritalin), vân vân. Người bán được cộng đồng xác thực và chấm điểm, giống như trên eBay và các trang mạng mua sắm khác.
Tuy lướt mạng Dark Net dường như khá dễ dàng, cơ quan thực thi pháp luật lại gặp khó khăn nhiều hơn trong việc triệt phá kẻ xấu chỉ vì một lý do đơn giản: Chính những công cụ giúp những đặc vụ của chính phủ và giới bất đồng chính kiến ẩn danh trên mạng cũng giúp bọn tội phạm gần như vô hình. Karen Friedman Agnifilo, phó chưởng lý khu vực Manhattan, một trong những người dẫn đầu cuộc chiến chống tội phạm trên mạng, nói: “Đây là hiện trường tội ác của thế kỷ 21, và những kẻ buôn lậu này tìm đủ mọi cách để che đậy dấu vết của chúng.”
* * *
Paul Syverson, một nhà toán học 57 tuổi ở Phòng Nghiên cứu Hải quân Mỹ, đã tạo ra Tor làm phương tiện cho người ta trao đổi thông tin một cách an toàn trên mạng. Mặc chiếc áo thun M.C. Escher, ngồi trong văn phòng bừa bộn của ông ở Washington, D.C., ông Syverson nói: “Lúc đó chúng tôi đương nhiên hiểu rằng kẻ xấu có thể dùng nó, nhưng mục tiêu của chúng tôi là có cái gì đó cho những người lương thiện muốn tự bảo vệ mình.”

Những người sáng tạo Tor: Syverson, (giữa, hàng cuối), Dingledine và Mathewson (trên cùng, từ bên trái). (Ảnh: Brennan Novak)
Từ khi ra đời vào năm 1923, Phòng Nghiên cứu Hải quân Mỹ là cơ sở nghiên cứu và phát triển được kính trọng nhất của quân đội, phát minh đủ thứ từ radar tới GPS. Năm 1995, Syverson và các đồng nghiệp nghĩ ra một cách giúp cho việc trao đổi thông tin trên mạng càng an toàn càng tốt. Mục đích là tạo ra một phương tiện để bất cứ ai – trong đó có các nhân viên và đặc vụ của chính phủ – cũng có thể chia sẻ thông tin mà không để lộ danh tánh hoặc vị trí của mình. Với tài trợ của Bộ Quốc phòng Mỹ, Syverson tuyển hai sinh viên đầu bù tóc rối tốt nghiệp Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), Roger Dingledine và Nick Mathewson, để giúp hiện thực hóa viễn tượng của ông. Giống như Syverson, Dingledine – nhà hoạt động đấu tranh vì quyền riêng tư, người gốc Chapel Hill, North Carolina – thấy dự án này là cách để giúp mọi người tự bảo vệ trong thời đại bị theo dõi trên mạng. Dingledine đặt câu hỏi: “Làm sao chúng tôi có thể xây dựng được một hệ thống giúp bạn có quyền riêng tư trong khi các chính phủ lớn đang ráng hết sức theo dõi Internet sát sao. Đó quả thật là một vấn đề nghiên cứu khó.”
Để hiểu cách vấn đề này được giải quyết, thử hình dung một điệp viên đi xe lửa từ Paris sang Berlin. Nếu điệp viên này đi thẳng thì có thể dễ dàng bị theo dõi. Nhưng nếu anh ta đáp nhiều chuyến tàu qua nhiều thành phố – Paris tới Amsterdam, Amsterdam tới Madrid, Madrid tới Berlin – thì khó bị theo dấu hơn. Về căn bản đó chính là cách Syverson và nhóm của ông thiết kế giải pháp. Thay vì một điệp viên ở Paris trực tiếp truy cập một computer ở Berlin, anh ta sẽ được định tuyến qua một loạt các computer ngẫu nhiên, che giấu vị trí thực của anh ta. Họ gọi mạng lưới này Onion Routing (Định tuyến Củ hành), hàm ý là cách truy cập mạng này thực hiện qua nhiều lớp như các lớp vỏ củ hành.
Năm ngoái, Andrew Lewman, giám đốc điều hành của Dự án Tor, mô tả với BBC: “Tor Network là một mạng lưới gồm khoảng 6.000 điểm chuyển tiếp, đó là các máy chủ dàn trải trên khoảng 89 nước. Và công việc của chúng tôi là chuyển tiếp lưu lượng truy cập mạng qua 3 trong những điểm chuyển tiếp này theo một kiểu thứ tự ngẫu nhiên, sao cho vị trí thật của bạn trên thế giới khác với vị trí tưởng như là điểm xuất phát của bạn. Ví dụ bạn đang ngồi ở Anh đây, và mở trình duyệt Tor để lướt mạng. Bạn có thể dường như xuất hiện từ Nhật, Argentina, hay Mỹ.”
Tuy nhiên, nếu chỉ có người trong quân đội sử dụng Tor, rõ ràng là lưu lượng truy cập mạng chỉ liên quan tới chính phủ. Syverson nói: “Chúng tôi muốn có một mạng lưới tải lưu lượng truy cập cho nhiều loại người sử dụng khác nhau, để ta không thể biết đây là một người thoát bệnh ung thư tìm thông tin hay là người của Hải quân.” Để làm được vậy, Syverson và nhóm của ông ra một quyết định mà ông gọi là “quan trọng cho tính an ninh của hệ thống”: Họ thiết kế Tor để cung cấp miễn phí trên mạng và dưới dạng nguồn mở, nghĩa là bất cứ ai trên thế giới cũng có thể đánh giá và cải tiến nó.
Mạng Tor không chỉ nhằm mục đích che giấu ai đang truy cập các trang mạng, mà nó còn được tạo ra để giúp các trang mạng có thể che giấu vị trí của các máy chủ duy trì trang mạng. Một trong những mục đích là cung cấp một kiểu hầm trú ẩn bí mật cho các trang mạng chính phủ, để nếu chúng bị tấn công, các đặc vụ của chính phủ có thể truy cập một phiên bản ẩn kín của trang mạng trực tuyến mà không bị hacker lần ra dấu vết. Đó là những trang mạng có đuôi .onion. Nhóm sáng tạo mạng Tor gọi chúng là các trang mạng “dịch vụ ẩn kín” (“hidden services”) – ngày nay, nó được gọi bằng cái tên giật gân hơn: Dark Net.
Năm 2003, phần mềm Tor được cung cấp công khai. Tin về trình duyệt này lan truyền trên các diễn đàn trong giới đấu tranh vì quyền riêng tư và giới nghiên cứu, và nó trở thành công cụ vững chắc và quan trọng nhất cho bất cứ ai muốn ẩn danh trên mạng. Giới nghiện và chuyên computer, các đặc vụ của chính phủ và giới hoạt động đấu tranh lập nên một mạng lưới tự nguyện gồm nhiều điểm nối (node) định tuyến lưu lượng truy cập Tor một cách ẩn danh trên toàn thế giới. Chẳng mấy chốc, người ta đã có thể yên tâm lướt mạng Internet mà không bị theo dõi dấu vết – vô hình đối với bất cứ ai muốn biết họ là ai, họ đi tới đâu hoặc họ định làm gì.
* * *