365 chuyện kể mỗi ngày. 3 tháng 1 năm 1776 nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu là ngày sinh của Nguyễn Du. Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như? “Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”. Nguyễn Du hiện được thế giới đánh giá là danh nhân văn hóa thế giới, nhà thơ lớn, nhưng tầm vóc của Người không phải chỉ vậy. Nguyễn Du là hiền tài lỗi lạc, nhà chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục kiệt xuất của Việt Nam không chỉ đối với triều Nguyễn mà Nguyễn Du còn là danh sĩ tinh hoa lỗi lạc của mọi thời đại.
Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, đã giới thiệu Nguyễn Du quê hương và dòng họ, tóm tắt gia thế Nguyễn Du để hiểu câu Kiều: “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.” Họ Nguyễn Tiên Điền có thế lực mạnh đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, niên biểu từ lúc ông sinh thành cho đến lúc Nguyễn Du mười sáu tuổi, làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở Thái Nguyên, tạo đất căn bản, dấy nghiệp ở Bắc Hà, lập thế chân vạc, tranh hùng với Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn ở Thuận Hóa và Nguyễn Ánh ở đất Gia Định.
Nguyễn Du danh sĩ tinh hoa, bài viết này luận về ba điểm căn bàn: 1) Nguyễn Du phong trần mài một lưỡi gươm, 2) Nguyễn Du đội trời đạp đất ở đời; 3) Nguyễn Du thiện căn ở tại lòng ta.
Nguyễn Du phong trần mài một lưỡi gươm
Lần theo chính sử chúng ta tái hiện được Nguyễn Du của năm năm đầu trong 15 năm lưu lạc (1781-1796):
Năm Tân Sửu (1781) Nguyễn Du mười sáu tuổi, Nguyễn Du làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở Thái Nguyên. Ý định họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Du là tạo đất căn bản và dấy nghiệp ở Bắc Hà, lập thế chân vạc, tranh hùng với Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn ở Thuận Hóa và Nguyễn Ánh ở đất Gia Định. Tướng trấn thủ Thái Nguyên Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến (Hà Mỗ trong Gia Phả họ Nguyễn Tiên Điền) là cha nuôi của Nguyễn Du và tâm phúc Nguyễn Nhiễm. Tướng trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Điền là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, Tướng trấn nhậm Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ đều là học trò Nguyễn Nhiễm và đó cũng là đất tổ nghiệp của nhà Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Du định dựng cờ phù Lê, xin chiếu vua Càn Long, liên thủ với vùng Nam Trung Quốc và Nghệ Tĩnh, giao kết kẻ sĩ, xây dựng lực lượng, trầm tĩnh theo chuyển biến thời cuộc để chớp thời cơ hành động.
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Cũng năm ấy, Nguyễn Ánh sau sự biến Đông Sơn, phải vất vả đối phó với nội tình tan rã ở Gia Định. Tháng 10 năm đó, vua nước Xiêm La (Thái Lan) là Trịnh Quốc Anh (Taksin) sai hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai Nguyễn Hữu Thụy và Hồ Văn Lân sang cứu, trong khi hai quân đang chống nhau thì ở Vọng Các (Băng Cốc) vua Xiêm bắt giam vợ con của hai anh em Chất Tri. Hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) bèn giao kết với Nguyễn Hữu Thụy rồi đem quân về giết Trình Quốc Anh (Taksin) và tự lập làm vua Xiêm La, xưng là Phật Vương (Rama1). Họ Chakkri làm vua cho đến ngày nay và các vua đều xưng là Rama. Vua Rama I chọn Bangkok (hay “Thành phố của các thiên thần”) làm kinh đô.
Năm Nhâm Dần (1782). Nguyễn Du mười bảy tuổi. Năm ấy, Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Khải (Trịnh Tông) lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
Trước đó, Trịnh Sâm kiêu hãnh khi quân Trịnh lấy được Thuận Hóa, đã có ý cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan thị lang Vũ Trần Thiệu đi cùng quan nội giám mang biểu sang tấu trình vua Thanh rằng con cháu nhà Lê không có ai đáng làm vua nữa. Nhưng, Vũ Trần Thiệu khi sang hồ Đồng Đình đã đem đốt tờ biểu rồi uống thuốc độc mà chết nên việc cầu phong bỏ không nói đến nữa. Trịnh Sâm say đắm Đặng Thị Huệ, trước khi chết để di chiếu phế con trưởng là Trịnh Khải lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử và giao Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo (Tố Lý) làm phụ chính. Trịnh Cán ít tuổi, lắm bệnh không mấy người phục, nên xảy ra biến loạn. Tháng 9 năm 1782 Trịnh Sâm mất, Trịnh Khải mưu với quân tam phủ kéo đến vây phủ giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa, tức Đoan Nam Vương (Nguyễn Khản là thầy dạy của Trịnh Khải).
Tháng 10 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiến thuyền vào cửa Cần Giờ đánh nhau với quân Nguyễn Ánh ở Ngã Bảy. Thủy binh Tây Sơn tinh nhuệ và thiện chiến áp sát và dùng hỏa hổ tấn công. Quân Nguyễn Ánh mặc dù có người Pháp và người Bồ Đào Nha điều khiển tàu châu Âu bảo vệ vòng ngoài vẫn thua to. Cai cơ Mạn Hòe (Manuel) người Pháp chết tại trận. Nguyễn Ánh phải bỏ thành Sài Gòn chạy về Ba Giồng. Quận công Tống Phước Thiêm bị quân Đông Sơn giết chết. Nguyễn Ánh dẫn tàn quân lánh ra đảo Phú Quốc.
Nguyễn Nhạc bình xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập giữ Sài Gòn. Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Chu Văn Tiếp đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn đi, lấy lại thành Sài Gòn rồi đón Nguyễn Ánh về, sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn.
Năm Quý Mão (1783). Nguyễn Du mười tám tuổi. Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường . Nguyễn Du vẫn giữ chức Chánh thủ hiệu quân Hùng hậu Thái Nguyên, nơi Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến là cha nuôi làm quan trấn thủ. Đây là vùng đất hiểm yếu có nhiều người Trung Quốc sang khai mỏ bạc. Nguyễn Đăng Tiến vốn là tay giặc già phản Thanh phục Minh người Việt Đông Trung Quốc, vừa là tân khách, thầy dạy võ cho Nguyễn Du và các anh em, vừa là tâm phúc của Nguyễn Nhiễm.
Nguyễn Du lấy vợ chính thất họ Đoàn (hoặc đính hôn?) là con gái thứ sáu của Đoàn Nguyễn Thục (người Quỳnh Côi, Hải An xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Nhờ lương duyên này mà Nguyễn Du có thêm thế lực của cha vợ là quan Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá và anh vợ là tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, sau này làm quan thị lang triều Tây Sơn.
Cũng năm ấy, Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (sinh 1761) đỗ đầu thi Hương ở điện Phụng Thiên, được bổ thị nội văn chức, khâm thị nhật giảng, sung Nội Hàn Viện cung phụng sứ, phó tri thị nội thư tả lại phiên, Thiên Thư Khu mật viện Đức Phái hầu, cai quản đội quân Phấn Nhất của phủ Chúa. Vừa lúc Thuận Châu khởi binh, phụng sai hiệp tán quân cơ của đạo Sơn Tây.
Năm 1783, vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh phía Nam. Trong chiến dịch này Nguyễn Huệ đã khéo lợi dụng lúc thủy triều lên và mượn sức gió thổi từ biển vào đất liền để dùng hỏa công và hỏa hổ tiến công, trên bờ thì dùng voi chiến do thủy binh chở vào, lần đầu xuất hiện ở đất Gia Định trên một địa thế hẹp. Nguyễn Vương thua to. Nguyễn Ánh rước mẹ và cung quyến chạy ra đảo Phú Quốc. Tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc, Nguyễn Vương chạy về Côn Lôn. Quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Lôn , nhưng gặp bão đánh đắm cả thuyền nên Nguyễn Ánh mới trốn thoát được, chạy về đảo Cổ Cốt rồi lại trở về Phú Quốc.